Tiềm lực tài chính quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường, chuyển từ thế bị động,phụ thuộc từ bên ngoài, sang một nền tài chính chủ động, có tích luỹ để đầu tư phát triển .
Tổng thu NSNN dự kiến thực hiện tháng 5 năm 2001 đến 2005 đạt khoảng 715 nghìn tỷ đồng, vượt so với mục tiêu đại hội IX(620 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng thu trung bình đạt 15,1% trên một năm (mục tiêu là 12% / năm) góp phần làm gia tăng đáng kể quy mô ngân sách, đảm bảo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế -xã hội giai đoạn 2001_2005.
_ Tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN đạt 22,5% GDP , trong đó thuế, phí dự kiến đạt 20,8% GDP (mục tiêu là 20-21%GDP , trong đó thuế, phí là 18-19% GDP).
_ Cơ cấu thu NSNN đã từng bước vững chắc hơn,thu nội địa trở thành nguồn thu quan trọng và chủ yếu (tỷ trọng nội thu không kể dầu thô tăng từ 50,7% tổng thu ngân sách năm 2001 lên 57,5% năm 2005).
_ Hệ thống chính sách động viên tài chính tiếp tục được đổi mới theo hướng giải phóng và khơi thông mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng chi ngân sách nhà nước (2000 - 2005), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (2000_2005)
I KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TÀI CHÍNH NĂM (2000_2005)
(1)Những thành tựu nổi bật:
_ Tiềm lực tài chính quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường, chuyển từ thế bị động,phụ thuộc từ bên ngoài, sang một nền tài chính chủ động, có tích luỹ để đầu tư phát triển .
Tổng thu NSNN dự kiến thực hiện tháng 5 năm 2001 đến 2005 đạt khoảng 715 nghìn tỷ đồng, vượt so với mục tiêu đại hội IX(620 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng thu trung bình đạt 15,1% trên một năm (mục tiêu là 12% / năm) góp phần làm gia tăng đáng kể quy mô ngân sách, đảm bảo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế -xã hội giai đoạn 2001_2005.
_ Tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN đạt 22,5% GDP , trong đó thuế, phí dự kiến đạt 20,8% GDP (mục tiêu là 20-21%GDP , trong đó thuế, phí là 18-19% GDP).
_ Cơ cấu thu NSNN đã từng bước vững chắc hơn,thu nội địa trở thành nguồn thu quan trọng và chủ yếu (tỷ trọng nội thu không kể dầu thô tăng từ 50,7% tổng thu ngân sách năm 2001 lên 57,5% năm 2005).
_ Hệ thống chính sách động viên tài chính tiếp tục được đổi mới theo hướng giải phóng và khơi thông mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
_ Hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về tài chính tiếp tục được đổi mới theo hướng tạo môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh thuận lợi,thông thoáng và minh bạch,nhằm thu hút tối đa các nguồn tiềm năng để phát triển kinh tế-xã hội. Trong 5 năm 2001-2005, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân ước đạt 35,6%GDP vượt mục tiêu ĐH Đảng IX(31-32%GDP) cao hơn so với giai đoạn 1996-2000(33%GDP). Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội,vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và dân cư có xu hướng tăng về tỷ trọng: Vốn đầu tư thuộc khu vực dân doanh chiếm khoảng 26% vượt mục tiêu ĐH Đảng IX(24-25%),và tăng hơn so với giai đoạn 1996-2000(23,8%) .Nhờ kết quả đó, mức huy động các tiềm năng trong nước tăng đáng kể (đạt 70% vượt mục tiêu ĐH Đảng IX-66%).
_ Các hình thức và các công cụ huy động nguồn lực tài chính từng bước được đa dạng hoá và dần thực hiện theo các nguyên tắc thị trường đảm bảo tập trung nguồn lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của nền kinh tế,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từng bước sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính.
_ Chính sách thuế có nhiều đổi mới quan trọng theo hướng từng bước hình thành hệ thống thuế công bằng, thống nhất, giảm dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế,tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh,tăng tích luỹ cho doanh nghiệp,thủ tục hành chính trong thu nộp thuế được đơn giản hoá,công tác quản lý thuế được đổi mới và dần được hiện đại hoá.
_ Cơ cấu phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển,tập trung ưu tiên chi cho những nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.
_ Nhờ nguồn động viên thu NSNN đạt khá nên tổng chi NSNN trong giai đoạn 2001-2005 đạt trên 889 nghìn tỷ đồng,tăng 18,6% so với mục tiêu đề ra(720-750 nghìn tỷ đồng); tốc độ tăng chi bình quân đạt 16,1% /năm(mục tiêu là 12%/năm). Tỷ trọng chi đầu tư phát triển dự kiến khoảng 29,2% tổng chi NSNN,đạt 8,2%GDP, vượt mục tiêu ĐHĐảng IX(khoảng 25-26% tổng chi NSNN,đạt 6-6,5%GDP) tăng so với giai đoạn 1996-2000(chi cho đầu tư phát triển là 26,3% tổng chi NSNN).
_ Chi NSNN cho giáo dục-đào tạo tăng từ 15% tổng chi NSNN năm 2000 lên 18% tổng chi NSNN năm 2005, nếu so GDP tăng từ 3,5%(năm 1998) lên 4,7%( năm 2004). Chi cho khoa học-công nghệ đạt 2% tổng chi NSNN.
_ Tài chính doanh nghiệp được đổi mới, từng bước hình thành cơ chế tài chính thống nhất góp phần khuyến khích đầu tư và mở rộng kinh doanh.
_ Thị trường tài chính bước đầu được hình thành.
_ Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính có nhiều kết quả.
(2)Những tồn tại, yếu kém.
_ Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn nhưng mức đáp ứng còn hạn chế nhiều tiềm năng vốn trong nước và nước ngoài chưa được khai thác tốt ,đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
_ Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý,tính dàn trải trong chi đầu tư chưa được khắc phục. Hiệu quả đầu tư còn thấp, thất thoát ,lãng phí, trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn nghiêm trọng. Đầu tư của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng lại thấp.
_ Chính sách thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp.
_ Bao cấp trong ngân sách chưa được xoá bỏ triệt để.Chi tiêu ngân sách, chi tiêu hành chính còn nhiều lãng phí thiếu hiệu quả. Chi ngân sách phục vụ nhu cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục,y tế chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết.
_ Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, tiềm lực tài chính doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ bé, năng lực cạnh tranh bị hạn chế.
_ Thị trường tài chính, thị trường dịch vụ tài chính phát triển chưa đồng bộ còn ở trình độ thấp, quy mô nhỏ bé, chất lượng dịch vụ chưa cao.
1.2 CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
(1) Khái niệm chi ngân sách nhà nước
_ Điều 2 luật NSNN ghi rõ:”Chi NSNN bao gồm: các khoản NSNN chi phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của phát triển”.
_ Như vậy, chi NSNN là tổng thể các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội do Nhà nước đảm nhiệm.
_ Chi NSNN có thể được hiểu trong hai quá trình: Quá trình phân phối và quá trình sử dụng quỹ tiền tệ Nhà nước. Có thể nói ngắn gọn chi NSNN là việc cung cấp nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
(2)Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
_ Chi NSNN phải gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước phải đảm nhận trong từng thời
kỳ cụ thể NSNN được coi là một công cụ tài chính quan trọng mà Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nên các khoản được phân phối từ nguồn vốn của NSNN phải phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
_ Chi NSNN là một khoản chi dựa trên nguyên tắc không hoàn trả một cách trực tiếp Chi NSNN liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau và được thực hiện trong phạm vi rộng lớn. Mức độ chi, phạm vi chi phụ thuộc vào sự quyết định của Nhà nước. Cơ cấu các khoản chi phụ thuộc vào sự quyết định vủa cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội. Bởi vì chi cho những ngành nào, cho hoạt động nào, mức chi cụ thể như thế nào đều phụ thuộc vào văn bản, chính sách, chế độ hiện hành do cơ quan nhà nước đặt ra.
_ Khi đánh giá tính hiệu quả của các khoản chi NSNN thì nó phải được xem xét ở tầm vĩ mô. Tức la phải đánh giá dựa trên cơ sở sự tác động của nó tới các hoạt động khinh tế – xã hội trong một khoảng thời gian dài và phạm vi rộng.
(3)Vai trò của chi ngân sách nhà nước với việc phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
_ Cùng với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách ngoại thương, chính sách ngân sách được sử dụng để tác động vào tổng cầu của xã hội nhằm hướng nền kinh tế đạt những mục tiêu nhất định như sản lượng cao, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ lệ thất nghiệp thấp và cân bằng cán cân thanh toán. Chính sách ngân sách nhằm vào các mục tiêu: thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế và hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, khi nói tới vai trò của chi NSNN người ta thường gắn với ba chức năng sau:
+ Chi NSNN để đảm bảo ổn định kinh tế và tăng trưởng.
+ Chi NSNN để phân bổ nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế.
+ Chi NSNN để phân phối lại thu nhập quốc dân.
Tuy nhiên không phải chính phủ nào cũng có khả năng và điều kiện để giải
quyết tất cả những vấn đề đó. Để thực hiện các mục tiêu của chính sách ngân sách người ta thường sử dụng các công cụ như: thuế, trợ cấp, cấp phát cho đầu tư, chi mua hàng hoá, dịch vụ công cộng và phát hành trái phiếu. Trong tình hình hiện nay, khi nước ta đang bắt đầu chuyển sang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì chi NSNN đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó có tác dụng điều chỉnh, thúc đẩy sự phát triển cân đối, vững chắc của nền kinh tế – xã hội trên từng lĩnh vực cụ thể như sau:
_ Lĩnh vực kinh tế: NSNN được coi là một công cụ quan trọng vì khả năng nguồn vốn của NSNN là rất lớn và phạm vi tác động của nó rất rộng. Thông qua chi NSNN sẽ góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển theo định hướng nhà nước. Thông qua các khoản chi gián tiếp, đặc biệt là chi xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng cũng góp phần tích cực cho việc phát triển nền kinh tế trên cả một vùng rộng lớn, hình thành cơ sở vật chất của Nhà nước.
_ Chi NSNN là một yếu tố không thể thiếu được trong quá trình phát triển kinh tế mỗi nước, tuy nhiên xã hội ngày càng đòi hỏi tính hiệu quả cao trong quá trình chi NSNN. Đặc biệt đối với nước ta một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì sự điều tiết của Nhà nước vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế là một đòi hỏi khách quan.
_ Lĩnh vực xã hội: Cùng với việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế thì chi NSNN cũng gop phần tích cực thực hiện các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho các hoạt động xã hội phát triển một cách động bộ.
Thông qua chi NSNN sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động: văn hoá, giáo dục đào tạo, y tế, các hoạt động khác thuộc lĩnh vực văn hoá xã…Việc sử dụng công cụ chi NSNN nhằm điều tiết các vấn đề xã hội không đơn giản, trong nhiều trường hợp nó tác động trở lại làm các vấn đề xã hội thêm phức tạp. Chẳng hạn khi NSNN trợ cấp giá điện và xăng dầu thì những đối tượng được hưởng không phải là những người nghèo mà lại là những người có thu nhập cao tạo ra sự mất cân bằng trong xã hội. Vì vậy, đòi hỏi quá trình chi NSNN phải được nghiên cứu đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp thực hiện.
_ Trên góc độ tài chính: Quá trình chi NSNN có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện chính sách ổn định giá cả thị trường, chống lạm phát. Chi NSNN nhằm mục đích kích thích sản xuất phát triển, tránh tình trạng bao cấp lãng phí.
Ngoài ra chi NSNN còn phục vụ cho một số hoạt động có tính chất tiêu dùng như chi cho hoạt động quản lý tài chính, an ninh quốc phòng. Đó là những hoạt động cũng rất quan trọng và phải được duy trì cùng sự phát triển của các hoạt động kinh tế, xã hội khác.
(4) Các loại chi ngân sách nhà nước
_ Chi NSNN rất phong phú đa dạng luôn biến động theo tình hình kinh tế, chính trị xã hội nhằm phân tích đánh giá để quản lí và định hướng các khoản chi. Người ta tiến hành phân loại các khoản chi NSNN theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại các khoản chi là việc sắp xếp các khoản chi NSNN có cùng tính chất, có cùng mục đích thành các loại chi. Có nhiều tiêu thức để phân loại các các khoản chi NSNN, tuy nhiên tuỳ thuộc vào công tác chi NSNN của từng đơn vị mà có sự áp dụng cách phân loại này hay phân loại kia.
Các khoản chi NSNN có thể phân thành Chương – Loại – Khoản Nhóm – Tiểu nhóm – Mục – Tiểu mục. Trong đó:
+ Chương dùng để chỉ cơ quan quản lý được nhận kinh phí từ NSNN
+ Loại dùng để chỉ ngành kinh tế quốc dân cấp I (hiện nay theo cách phân loại, ngành kinh tế quốc dân có 20 ngành cấp I)
+ Khoản dùng để chỉ ngành kinh tế quốc dân cấp II hoặc cấp III (trực thuộc ngành kinh tế quốc dân cấp I)
+ Nhóm và tiểu nhóm dùng để phân loại các khoản chi NSNN theo tính chất phát sinh của các nhóm đó.
+ Mục và tiểu mục là chỉ các hình thức chi cụ thể.
Trong cách phân loại này nếu không xét các khoản mục theo Chương – Loại – Khoản mà chỉ xét theo Nhóm – Tiểu nhóm, Mục – Tiểu mục thì các khoản chi NSNN được chia thành 2 loại: Chi thường xuyên, Chi đầu tư phát triển, chi trả nợ và viện trợ.
Tổng hợp cơ cấu chi NSNN
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính
II > NỘI DUNG CHÍNH VỀ THỰC TRẠNG CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM(GIAI ĐOẠN 2000-2005)
Theo tính chất kinh tế chi ngân sách nhà nước được chia ra các nội dung sau đây.
*) Chi thường xuyên
Là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của cơ quan nha nước nhằn duy trì đời sống quốc gia.Chi thương xuyên gồm có:
_ Chi về chủ quyền quốc gia:tức là các chi phímà cơ quan nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao, thông tin đại chúng....
_ Chi phí liên quan đến sự điều hành vàduy trì hoạt động của các cơ quan nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó.
_ Chi phí do sự can thiệp của nhà nước vao các hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội để cải thiện đời sống nhân dân.
*) Chi đầu tư phát triển.
_ Chi cho mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ.
_ Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị.
_ Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các tổ chức sản xuất kinh doanh.
_ Các chi phí chuyển nhượng đầu tư.
_ Những chi phí đầu tư liên quan đến sự tai trợ của nhà nước dưới hình thức cho vay ưu đãi hoặc trợ cấp cho những pháp nhân kinh tế công hay tư, để thực hiện các nhiện vụ đồng loạt với các nghiệp vụ trên, nhằm thực hiện chính sách phát triền kinh tế của nhà nước.
TÌNH HÌNH CHI NSNN TRONG CÁC NĂM 2000-2005
*Những chuyển biến tích cực
. _ Cơ cấu chi có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho những nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.
+ Chi NSNN đạt trên 869nghìn tỷ đồng tăng 15,9% so với mục tiêu đề ra (720-750 nghìn tỷ đồng ).
+Chi đầu tư phát triển đạt 29,2% (mục tiêu là 25-26%)
+Chi giáo dục đào tạo tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005
+Chi khoa học công nghệ 2%
+Tăng chi phí phát triển sự nghiệp văn hoá thông tin, y tế, đảm bảo xã hội ...
+Tăng chi phí phát triển cho các vùng sâu-xa, những vung miền núi khó khăn (như Tây Nguyên, các vùng núi phía bắc, các tỉnh Tây Nam Bộ ,,...)
+Chi góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng, thực hiện xoá đói giảm nghèo...
_ Giữ mức bội chi hợp lý (dưới 5% so với GDP ), đảm bảo trả nợ hết hạn theo cam kết.
_ Dư nợ chính phủ, dư nợ quốc gia so GDP ở mức an toàn (dưới 50% ) tác động tích cực đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
*Những tồn tại chủ yếu:
+Tính bao cấp trong ngân sách còn cao, bố trí ngân sách còn dàn trải, phân tán, công tác xã hội hoá đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhưng kết quả còn hạn chế so với yêu cầu. Tình trạng nợ cơ bản đã được khắc phục một phần nhưng số tiền nợ vẫn còn lớn. Quản lý chi tiêu ở nhiều lĩnh vực, địa bàn, đơn vị còn thất thoát, lãng phí, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính ngân sách nhiều nơi buông lỏng.
+Tính dàn trải trong đầu tư chưa được khắc phục, hiệu qủa đầu tư còn thấp, thất thoát ,lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn nghiêm trọng. Đầu tư của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng thấp. Chi ngân sách cho một số lĩnh vực phục vụ nhu cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục, y tế ...chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết.
*Quy mô chi ngân sách qua các năm
Quy mô chi ngân sách bình quân các năm 2001-2004 đạt 25,4% GDP, cao hơn mức bình quân 22,1% GDP của giai đoạn 1996-2000. Quy mô chi năm sau thường cao hơn năm trước. Năm 2000, đạt 23,4% GDP, năm 2001 đạt 24,8%GDP, năm 2002 đạt 25%GDP, năm 2003 đạt 26,2%GDP, năm 2004 đạt 25,6% GDP.
Mặc dù quy mô chi NSNN tăng dần qua các năm nhưng tốc độ tăng chi NSNN có chậm lại. Năm 2000, chi NSNN tăng 21,6% so với năm 1999. Năm 2001, tăng 15,8% so với năm 2000. Năm 2002, chỉ còn tăng 12,9% so với năm 2001. Năm 2003, do tăn lương tối thiểu từ 210.000 lên 290000 đồng, nên tốc độ tăng chi tiêu so với năm 2002 lại lên đến 18,3%. Năm 2004, tốc độ tăng lại giảm xuống còn 15,4%. Nhìn chung ,về quy mô nhu cầu chi NSNN không quá cao so với khả năng thu, không gây sức ép xấu đến cân đối NSNN. Tuy nhiên tình hình thực hiện chi NSNN luôn luôn vượt qua dự toán là điều đáng xem xét. Năm 2005, một số khoản chi đã vượt dự toán khá lớn. Chi sự nghiệp kinh tế vượt dự toán 30,2% so với dự toán, chi bổ sung quỹ dự trữ quốc gia vượt 58%, chi quản lý bộ máy nhà nước vượt 11,9%. Chi bù lỗ dầu nhập khẩu ước thực hiện 11000 tỷ đồng...Tình trạng chi tiêu vượt dự toán đã phê chuẩn thể hiện kỷ luật tài chính chưa nghiêm và chứa đựng những nguy cơ tác động xấu đến tính bền vững, ổn định của NSNN.
+Từ nhiều năm nay chi đầu tư phát triển đều vượt dự toán và tăng cao so với năm trước. Năm 2003 ,chi ĐTPT tăng 13,9% so với năm 2002. Năm 2004 tăng15,7% so với năm 2003, chiếm 28,6% tổng chi NSNN, đạt 8,3%GDP. Năm 2005 tăng 14,1% so với năm 2004.
+Bội chi NSNN năm 2004, tính theo chuẩn quốc tế là 1,6% GDP. Bình quân 4 năm 2001-2004 chỉ ở mức 2,2%GDP.
MỘT SỐ MẶT CỤ THỂ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG
CHI CHO HOẠT ĐỘNG KINH TẾ – XÃ HỘI, VĂN HOÁ
_ Chi cho phát triển kinh tế: Khoản chi này hàng năm bình quân đạt 6,2% tổng chi NSNN (giai đoạn 1991-1996); 5,5% (giai đoạn 1996-2000); năm 2001 đạt 6,37%; năm 2002 ước khoảng 5,22% tổng chi NSNN
_ Chi cho sự nghiệp giáo dục: Đầu tư cho giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Sau 10 năm, từ 1991 đến 2000, tỷ trọng trong tổng chi ngân sách đã tăng gấp 2 lần, đạt tốc độ tăng nhanh nhất trong chi thường xuyên. Giai đoạn 1991-1995, NSNN đầu tư cho GD-ĐT đạt mức trung bình hàng năm bằng 9% tổng chi NSNN; sang giai đoạn 1996-2000 tăng lên 11,3%; năm 2001 tiếp tục tăng lên bằng 12,7%; năm 2002 13,7% tổng chi NSNN.
Mặc dù đầu tư cho GD của ta cũng tăng nhưng chưa tập trung dứt điểm và cú trọng điểm. Cho nên, cũng dàn trải và thiếu đồng bộ, làm ảnh hưởng đến chất lượng GD; đồng thời, chưa có sự kết hợp đầu tư từ ngân sách và các nguồn thu huy động từ xã hội hoá (XHH). Tức là huy động toàn dân tham gia GD. Trong khi đó, nguồn thu từ học phí cũng lộn xộn, chưa có cơ chế chính sách thu quản lý thống nhất, sử dụng chưa đúng cho đào tạo.Việc sử dụng chi cho GD- ĐT chưa được cân đối giữa chi cho con người và mua sắm trang thiết bị dạy học. Thực tế, ngân sách chủ yếu mới tập trung để trả lương, cũng đầu tư cho thiết bị dạy học cả phổ thông và ĐH chưa được chú trọng. Tỷ lệ trả lương cho giáo viên chiếm từ 90 - 95%, đầu tư xây dựng cơ bản mới chỉ chú trọng xây "vỏ" bên ngoài, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm thực hành rất ít.
Để đạt được mục tiêu phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục thì cần phải giải quyết được vấn đề tài chính cho giáo dục. Vấn đề này bao gồm hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là cần thiết phải tăng thêm chi tiêu cho giáo dục, dự kiến năm 2006 tăng chi cho giáo dục lên mức 19% tổng chi NSNN, tức khoảng 22.000-23.000 tỉ đồng, tăng chi cho giáo dục đến năm 2010 lên 20% tổng chi tiêu NSNN.
Chi cho y tế: Trong vòng 5 năm(2001- 2005), mặc dù NSNN đã tăng chi y tế từ 5 USD lên khoảng 10 USD/ người(tính trong tổng chi ngân sách thì con số này tăng từ 4,2 % năm 2001 lên 5,5% tổng chi NSNN năm 2005). Tuy nhiên, nếu tính chi phí cho mỗi các nhân thì phần nhà nước chi mới đảm bảo được khoảng 20%, 80% còn lại do gia đình người ốm tự trả. Mức chi NSNN cho y tế nước ta thấp hơn nhiều so với Malaysia, Thái Lan, Singapo, Brunây. Tổ chức y tế thế giới đã xếp Việt Nam đứng thứ 187/191 nước thành viên khi xét về “tỷ trọng chi cho y tế từ nguồn tài chính công”. Định mức phân bổ chi thường xuyên theo đầu dân kết hợp với hệ số vùng cao còn rất thấp dẫn đến kinh phí cấp cho giường bệnh thấp. Có nơi kinh phí cấp hàng năm cho 1 giường bệnh tính chi đạt 16-17 triệu đồng/giườg/năm trong khi để duy trì hoạt động tối thiểu phục vụ cho 1 giường bệnh là 20-25 triệu đồng/giường/năm. Nhiều bênh viện hiện nay chỉ có đủ kinh phí chi trả tiền lương và phụ cấp lương cho cán bộ bệnh viện, không đủ kinh phí để chi cho hoạt động và mua thuốc, vật tư. Bên cạnh đó mức thu viện phí thấp và chưa đủ chi phí nên