Nền kinh tế thị trường, nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế. Để đạt được mục đích phi lợi nhuận của mình không ít các chủ thể kinh tế đã sử dụng những hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình các chủ thể này đưa ra các thông tin kinh tế tài chính sai lệch gây thiệt hại kinh tế đối với chủ thể kinh tế khác.
Vì vậy kiểm toán với chức năng xác định tính hợp pháp hợp lý và hợp lệ trong các hoạt động kinh tế tài chính. Từ đó làm lành mạnh hóa các hoạt động kinh tế tài chính trong các tổ chức tài chính doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với nền kinh tế.
Căn cứ vào các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luận, các chuẩn mực kiểm toán. Kiểm toán viên sẽ tiến hành xác định tính đúng đắn, hợp lý, hợp pháp của các tài liệu số liệu kế toán, báo cáo tài chính hàng năm. Mọi sai phạm bất hợp lý, không đúng với quy định của pháp luật và các chuẩn mực sẽ được phát hiện.
Nội dung chính:
Chương 1: Tổng quan về kiểm toán và kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm toán tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
69 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng hoạt động kiểm toán tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường, nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể
kinh tế. Để đạt được mục đích phi lợi nhuận của mình không ít các chủ thể kinh tế
đã sử dụng những hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình các chủ thể này đưa ra các thông tin kinh tế tài chính sai lệch
gây thiệt hại kinh tế đối với chủ thể kinh tế khác.
Vì vậy Kiểm toán với chức năng xác định tính hợp pháp hợp lý và hợp lệ
tong các hoạt động kinh tế tài chính. Từ đó làm lành mạnh hoá các hoạt động kinh
tế tài chính trong các tổ chức tài chính doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển ổn
định của nền kinh tế đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đôí với nền kinh tế.
Căn cứ vào các qui định trong các văn bản qui phạm pháp luật, các chuẩn
mực Kiểm toán.Kiểm toán viên sẽ tiến hành xác định tính đúng đắn, hợp lý,hợp
pháp của các tài liệu số liệu kế toán, báo cáo tài chính hàng năm. Mọi sai phạm bất
hợp lý, không đúng với qui định của pháp luật và các chuẩn mực sẽ được phát hiện.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Tổng quan về kiểm toán
1. Khái niệm và bản chất của kiểm toán
Rất có cơ sở để phỏng đoán rằng sự mong muốn có các báo cáo tài chính
trung thực đã tồn tại ngay từ khi các cá nhân, có quan hệ hợp đồng với người khác.
Nguyên bản”Auditing” gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Từ
Auditing có nguồn gốc từ động từ la tinh “ audire” nghĩa là “nghe”. Hình ảnh của
kiểm toán cổ điển là các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng cách
ngươì ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập. Ngày nay có rất nhiều khái niệm
khác nhau về kiểm toán.
Theo định nghĩa của liên đoàn kế toán quốc tế ( international Federation
accoutan- IFAC) thì “ kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra, và
trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính” tiến sĩ Robert N. Arthor
giáo sư trường đại học Harward cho rằng “ kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các
việc ghi chép kế toán bởi các Kiểm toán viên công cộng, được thừa nhận, độc lập
và ở bên ngoài tổ chức được kiểm tra. điều này cũng phù hợp với định nghĩa được
ghi trong lời mở đầu giải thích về chuẩn mực kiểm toán của Vương Quốc Anh",
kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính
của một đơn vị do Kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện các công việc đó
theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
Ở nước ta, quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân( ban hành
theo Nghị định số 07/CP ngày 29/01/94 của Chính phủ) đã ghi rõ “ kiểm toán độc
lập là việc kiểm tra và xác nhận của Kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ
chức kiểm toán độc lập, về tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và
báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã
hội khi có yêu cầu của đơn vị này”.
Bản chất của kiểm toán nếu xét ở góc độ chung nhất chính là sự kiểm tra
độc lập từ bên ngoài, được thực hiện với một số lực lượng có một trình độ chuyên
môn cao. Chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp lý và kinh tế đối với các nhận
xét của mình về độ tin cậy.
2. Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đặc biệt là kiểm toán độc
lập đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh,nhằn nâng cao chất
lượng quản lý của các doanh nghiệp. Hoạch toán kế toán là bộ phận cấu thành quan
trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, ngày càng trở nên quan trọng và cần
thiết cho các quyết định kinh tế. Kiểm toán luôn đi liền và là sự tiếp nối của hoạt
động kế toán. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp thông
tin thì kiểm toán là sự xác nhận khách quan, tính chuẩn xác của thông tin, và cái
quan trọng hơn là qua đó hoàn thiện quy trình quản lý. Mặt khác chúng ta biết rằng
các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm
chủ yếu của rất nhiều người như : chủ doanh nghiệp các cổ đông, thành viên Hội
đồng quản trị, ngân hàng, bạn hàng của doanh nghiệp... Tuy mỗi đối tượng quan
tâm đến báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ở các giác độ khác nhau, nhưng
đều có mong muốn, nguyện vọng chung là được sử dụng các thông tin tài chính
một cách chính xác, trung thực và đầy đủ( có độ tin cậy cao) . Do vậy cần có một
bên thứ ba, độc lập khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, có địa vị pháp lý, trách
nhiệm kiểm tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp lập có
trung thực không, có phản ánh đúng đắn và trung thực tình hình tài chính của
doanh nghiệp không... Đó chính là công việc của kiểm toán độc lập.
Ở Việt Nam hoạt động kiểm toán mới ra đời nhưng đã có được địa vị pháp lý
vững chắc, được pháp luật công nhận và bảo hộ.
3. các loại kiểm toán.
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại kiểm toán khác nhau.
3.1. phân loại theo chủ thể kiểm toán.
3.1.1. Kiểm toán nội bộ.
Là kiểm toán do Kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành, phạm vi của
kiểm toán nội bộ xoay quanh việc “ kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả
của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như chất lượng thực thi
trong nhiêm vụ được giao. Thông thường kiểm toán nội bộ hoạt động trong một vài
lĩnh vực sau:
- Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan,
giám sát sự hoạt động của các hệ thống này và tham gia hoàn thiện chúng.
- Kiểm tra các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính.
- Kiểm tra sự tiết kiệm, tính hiệu quả và hiệu xuất của các hoạt động kể cả
các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
3.1.2. Kiểm toán nhà nước.
Là hoạt động kiểm toán do các Kiểm toán viên của nhà nước tiến hành và
chủ yếu là kiểm toán tuân thủ.
3.1.3. Kiểm toán độc lập.
Là loại kiểm toán được tiến hành bởi các Kiểm toán viên độc lập thuộc các
tổ chức kiểm toán độc lập. Họ thực hiện các cuộc kiểm toán theo đơn đặt hàng (
yêu cầu của khách hàng).
3.2. phân loại theo mục đích và chức năng.
3.2.1. kiểm toán hoạt động: ( operational audit)
Là kiểm toán đánh giá tính hiệu quả, tác dụng của một phương án sản xuất
kinh doanh, một quy trình công nghệ hoặc một công trình XDCB hoàn thành đưa
vào sử dụng. Vì vậy kiểm toán quá trình hoạt động còn gọi là “ kiểm toán hiệu quả”
kiểm toán loại này phải sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: kế toán tài chính, kinh
tế, kỹ thuật... Thông thường kết thúc kiểm toán là một báo cáo giải trình có nhận
xét, phân tích, đánh giá gửi cho các cơ quan đơn vị có liên quan.
3.2.2. Kiểm toán tuân thủ.
Là sự kiểm tra của đơn vị cấp trên đối với đơn vị cấp dưới về sự chấp hành
quy chế, chính sách chế độ... kiểm toán sự tuân thủ, vì vậy còn gọi là kiểm toán quy
tắc.
3.2.3. Kiểm toán báo cáo tài chính.
Là sự kiểm tra, xác nhận xem xét các báo cáo tài chính do các đơn vị kế toán
lập ra có đúng đắn trung thực hợp lý hay không, có hợp thức và tuân thủ theo các
đòi hỏi pháp định liên quan hay không.
3.3. Phân loại theo kế hoạch kiểm toán.
3.3.1. kiểm toán định kỳ.
Là kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm do chủ doanh nghiệp mời các tổ
chức kiểm toán chuyên nghệp, hoặc do cơ quan quản lý nhà nước tiến hành hay yêu
cầu của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp kiểm tra.
3.3.2. Kiểm toán bất thường.
Là việc kiểm toán không thường xuyên nhằm phục vụ cho từng mục đích
riêng biệt nào đó. Ví dụ : kiểm toán khi doanh nghiệp chuẩn bị tuyên bố phá sản,
chấm dứt hoạt động, kiểm toán tài sản khi liên doanh chia tách,sáp nhập...
4. Chức năng kiểm toán.
Kiểm tra xác nhận: với chức năng kiểm tra Kiểm toán viên thực hiện kiểm
tra xác nhận:
+ Tính trung thực, độ tin cậy của các thông tin.
+ Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, quy định.
Sau khi kiểm tra và xác nhận Kiểm toán viên còn tiến hành đánh giá và đề
xuất đối với các thông tin được kiểm toán.
5. Kiểm toán viên.
5.1. Tiêu chuẩn kiểm toán viên.
Theo liên đoàn kiểm toán quốc tế thì yêu cầu đối với một kiểm toán viên bao
gồm:
5.1.1. Kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên.
Việc thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một
cách thân trọng theo yêu cầu nghề nghiệp. Vì vậy Kiểm toán viên phải được đào
tạo và trải qua kinh nghiệm về những kỹ năng cơ bản về nghề kế toán, một số kỹ
năng của luật sư và nhà nghiên cứu khoa học. Một Kiểm toán viên trước hết phải là
chuyên gia lành nghề, đồng thời một Kiểm toán viên được đào tạo không vô tổ
chức trở thành một Kiểm toán viên có hiệu quả. Kiểm toán viên phải thường xuyên
nhận thức được sự phát triển về kế toán kiểm toán.
Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của mình
trong suốt quá trình hành nghề. Yêu cầu về kỹ năng và khả năng nghề nghiệp còn
lưu ý các Kiểm toán viên chỉ nhận làm những phần việc mà bản thân hoặc hãng của
mình có đủ trình độ và khả năng hoàn thành công việc đó.
5.1.2. Đạo đức của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải là người trung thực thẳng thắn, có lương tâm nghề
nghiệp, phải công minh chính trực và không được phép để cho sự định kiến thiên
lệch, làm lấn át tính khách quan, chính trực. Kiểm toán viên phải điều chỉnh mình
cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tín của bản thân và của hãng, phải tự
kiềm chế những tính có thể phá vỡ uy tín nghề nghiệp.
Kiểm toán viên phải thường xuyên rèn luyện tính cẩn thận một cách thoả
đáng tất cả các kỹ năng và sự siêng năng cần thiết khi thực thi nhiệm vụ của mình.
5.1.3. Tính độc lập của kiểm toán viên.
Khi tiến hành kiểm toán, Kiểm toán viên phải thể hiện tính độc lập của mình,
không được để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan, hoặc sự chi phối của vật
chất làm mất đi tính độc lập.
Kiểm toán viên không được có quan hệ và có quyền lợi về mặt kinh tế ở đơn
vị mà Kiểm toán viên đang nhận làm kiểm toán.
Những quan hệ huyết thống cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Kiểm toán
viên.
5.1.4. Tôn trọng bí mật.
Kiểm toán viên phải tôn trọng bí mật của những thông tin đã thu thập được
trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin kiểm toán nào
cho người thứ ba khi chưa được phép.
5.1.5. Tôn trọng pháp luật.
Trong hoạt động nghề nghiệp, kiểm toán viên phải tôn trọng và chấp hành
đúng các chế độ, thể lệ, nguyên tắc, và luật pháp của Nhà nước. Kiểm toán viên
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp của mình trong
báo cáo kiểm toán.
5.1.6. Các chuẩn mực nghiệp vụ.
Kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo những
chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó.
Theo chế độ kiểm toán hiện hành của Viêt Nam, Kiểm toán viên phải có đủ
các tiêu chuẩn sau:
+Lý lịch rõ ràng, có phẩm chất trung thực, liêm khiết, nắm vững các chế độ
chính sách kinh tế, tài chính kế toán hiện hành, không có tiền án tiền sự.
+ Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc trung học chuyên ngành tài chính kế toán,
đã công tác kế toán tốt từ 5 năm trở lên( đối với tốt nghiệp đại học) và 10 năm đối
với tốt nghiệp trung học.
+ Đã qua kỳ thi tuyển Kiểm toán viên do Hội đồng thi cấp Nhà nước tổ chức
và được Bộ trưởng Bộ tài chính cấp chứng chỉ.
+ Được nhận vào làm việc tại một tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam và đã được đăng ký danh sách Kiểm toán viên ở Bộ tài chính.
5.2. Trách nhiệm, quyền hạn của kiểm toán viên.
5.2.1.Trách nhiệm của kiểm toán viên.
Chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc kiểm toán quy định, thực hiện đúng
hợp đồng kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về tính trung thực
khách quan của kết quả kiểm toán và ý kiến nhận xét trong báo cáo kiểm toán.
Không được gây trở ngại cho đối tượng kiểm toán khi tiến hành kiểm toán.
Tuân thủ pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Bảo đảm trung thực, độc lâp, khách quan,công bằng và bí mật số liệu.
Tuân thủ các chuẩn mực kế toán và kiểm toán hiện hành của Việt Nam và
các chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
5.2.2. Quyền của kiểm toán viên.
Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ theo khuôn khổ của pháp luật.
Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ kịp thời các tài liệu liên quan đến nội
dung kiểm toán.
Đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đơn vị được kiểm
toán ở trong và ngoài đơn vị.
Có quyền khước từ làm kiểm toán viên cho khách hàng nếu xét thấy không
đủ khả năng và điều kiện kiểm toán.
Phát hiện đơn vị được kiểm toán có hiện tượng vi phạm pháp luật có quyền
thông báo và kiến nghị với đơn vị và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo
kiểm toán.
6. Các khái niệm sử dụng trong kiểm toán.
6.1. Gian lận và sai sót.
6.1.1. Gian lận:
Là những hành vi có chủ ý lừa dối liên quan đến việc tham ô, biển thủ tài sản
hoặc là xuyên tạc các thông tin tài chính hoặc giấu giếm tài sản. Gian lận có thể
biểu hiện dưới các dạng sau:
+ Xử lý chứng từ theo ý muốn chủ quan như sửa đổi, làm giả chứng từ....
+ Giấu giếm thông tin tài liệu hoặc nghiệp vụ .
+ Ghi chép các nghiệp vụ không đúng sự thật.
+áp dụng sai các nguyên tắc kế toán một cách cố ý.
6.1.2. Sai sót:
Là những nhầm lẫn ảnh hưởng đến báo cáo tài chính như:
+ Lỗi về tính toán số học hay ghi chép sai.
+ áp dụng sai các nguyên tắc kế toán.
+ bỏ sót hoặc hiểu sai khoản mục.
6.2. Trọng yếu và rủi ro.
6.2.1. Trọng yếu:
Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ( độ lớn) bản chất của sai phạm ( kể cả sai
sót), thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể
nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ là không chính xác hoặc là sẽ rút
ra những kết luận sai lầm.
6.2.2. Rủi ro trong lĩnh vực kiểm toán bao gồm:
a. Rủi ro tiềm tàng:
Tồn tại ngay trong bản thân nghiệp vụ, môi trường kinh doanh. Rủi ro tiềm
tàng là khả năng tiềm ẩn những sai sót trọng yếu trong đối tượng kiểm toán. loại rủi
ro này nằm trong hoạt động kinh doanh, trong môi trường và trong bản chất nghiệp
vụ trước khi chúng ta xem xét tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
b) Rủi ro kiểm soát.
Là khả năng mà hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện ra và
ngăn chặn được những sai sót trọng yếu.
c) Rủi ro phát hiện.
Là rủi ro mà Kiểm toán viên không phát hiện ra các sai sót trọng yếu trong
đối tượng kiểm toán, khi tiến hành kiểm toán.
d) Rủi ro kiểm toán.
Là những rủi ro mà Kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận
xét không xác đáng về đối tượng kiểm toán và đó chính là những sai sót nghiêm
trọng.
6.3. Bằng chứng kiểm toán.
Là tập hợp tất cả các thông tin tài liệu mà Kiểm toán viên thu thập được để
làm căn cứ đưa ra những nhận xét, kết luận trên báo cáo kiểm toán.
Yêu cầu của bằng chứng kiểm toán:
+ tính đầy đủ: nói về số lượng bằng chứng, số lượng bằng chứng nhiều hay ít
phụ thuộc vào mục tiêu, đối tượng kiểm toán.
+ Tính thích hợp : nói về chất lượng và độ tin cậy của bằng chứng, phụ thuộc
vào kinh nghiệm, trình độ của Kiểm toán viên.
Kỹ thuật thu thập bằng chứng:
+ Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp.
+điều tra phỏng vấn, xây dựng danh mục câu hỏi.
+ Quan sát.
+Phân tích tính toán.
6.4. Doanh nghiệp hoạt động liên tục.
Thông thường một doanh nghiệp được coi là hoạt động liên tục khi nó tiếp
tục hoạt động trong tương lai định trước, người ta quan niệm rằng doanh nghiệp
không có ý định và cũng không cần phải giải thể hoặc thu hẹp quy mô hoạt động
của mình.
Một số biểu hiện của hoạt độngliên tục:
- Biểu hiện về tài chính:
+Tổng số nợ phải trả trên tổng số nợ ngắn hạn phải trả.
+ Các khoản vay mượn đến hạn không đủ khả năng thanh toán, không đủ độ
tin cậy để vay ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn.
+ Các tỷ lệ tài chính.
+ lỗ trong kinh doanh.
Biểu hiện hoạt động:
+ thiếu cán bộ chủ chốt mà không được bổ sung.
+ thiếu nguồn cung cấp thông tin chuẩn mực.
- Các biểu hiện khác như không đủ vốn pháp định doanh nghiệp đang bị
kiện, có sự thay đổi về chính sách kinh tế của chính phủ.
6.5. Hồ sơ kiểm toán.
Hồ sơ kiểm toán chính là các dẫn chứng bằng tài liệu về quá trình làm việc
của Kiểm toán viên, về các bằng chứng thu thập được để hỗ trợ cho quá trình kiểm
toán và làm cơ sở cho ý kiến của Kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán.
Hồ sơ kiểm toán bao gồm các tài liệu kế toán, các bảng xác nhận và giải
trình, các tài liệu khảo sát về kiểm soát nội bộ, kế hoạch kiểm toán, chương trình
kiểm toán, các bảng cân đối liệt kê phân tích...
Yêu cầu của hồ sơ kiểm toán:
+ Hồ sơ kiểm toán phải có đề mục rõ ràng.
+ Hồ sơ kiểm toán phải có chữ kí của Kiểm toán viên.
+ Hồ sơ kiểm toán phải đươc chú thích đầy đủ về nguồn gốc dữ liệu, kí hiệu
sử dụng...
+ Hồ sơ kiểm toán phải đầy đủ.
+ Hồ sơ kiểm toán cần trình bày dễ hiểu và rõ ràng.
+ Hồ sơ kiểm toán cần được xắp xếp khoa học.
7. Phương pháp kiểm toán.
7.1. Phương pháp kiểm toán cơ bản .
Các phương pháp kiểm toán cơ bản là các phương pháp được thiết kế sử
dụng nhằm mục đích thu thập các bằng chứng về sự hoàn chỉnh chinh xác và hiệu
lực của các dữ liệu do hệ thống kế toán xử lý.
7.1.1. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng quát.
Phương pháp này chủ yếu dùng để phân tích, đánh giá các thông tin tài chính
của doanh nghiệp.
a. phân tích so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu ( phân tích ngay) như so
sánh số liệu kỳ này với kỳ trước, số liệu thực tế với giấy phép đầu tư...
b. Phân tích tỷ suất( phân tích dọc) bằng cách so sánh, xác định tỷ lệ tương
quan giữa các chỉ tiêu, khoản mục...
7.1.2. Phương pháp kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư.
Phương pháp kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư chỉ thích hợp với
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các loại nghiệp vụ có tính chất không phức tạp
hoặc những bộ phận, những khoản mục dễ “ cảm xúc” trong kinh doanh. Tuy nhiên
phương pháp này tỏ ra không thực tế khi quy mô và khối lượng giao dịch ngày
càng tăng. Bởi vậy kiểm toán hiện đại không kiểm tra chi tiết, toàn bộ các nghiệp
vụ và số dư tài khoản mà việc kiểm tra chi tiết được dựa trên cơ sở lấy mẫu một số
nghiệp vụ cùng loại.
7.2. Phương pháp tuân thủ.
Phương pháp tuân thủ là những nghiệp vụ kiểm tra được thiết lập để thu thập
bằng chứng đảm bảo hợp lý rằng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực.
Đặc trưng của phương pháp tuân thủ là dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ
của doanh nghiệp. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp được đánh giá
là mạnh, là hiệu quả và kiểm toán viên có thể tin tưởng vào thi các công việc kiểm
toán có thể và cần phải dựa vào hệ thống kiểm soát.
Tuỳ thuộc vào mức thoả đáng về kiểm soát, kiểm toán viên có thể áp dụng
các phương pháp cụ thể sau:
7.2.1. Phương pháp cập nhật cho hệ thống.
Còn gọi là kỹ thuật kiểm tra hệ thống. Kỹ thuật này đòi hỏi việc kiểm tra chi
tiết một loạt các nghiệp vụ cùng một loại ghi chép từ đầu đến cuối để xem xét đánh
giá các bước kiểm soát áp dụng trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nếu việc kiểm tra hệ thống cho thấy các bước kiểm soát là yếu thì cần tiến
hành thử nghiệm các chi tiết.
7.2.2. Thử nghiệm các chi tiết đối với kiểm soát.
Các thử nghiệm chi tiết đối với các kiểm soát chủ yếu cũng được dựa trên cơ
sở kiểm tra mẫu các chứng từ.
8. Kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán.
Lấy mẫu kiểm toán là việc kiểm tra một phần dữ liệu( mẫu) để rút ra kết luận
hợp lý cho toàn bộ dữ liệu( tổng thể). Kiểm toán viên chấp nhận những điều không
chắc chắn nào đó trong kết quả của phép thử kiểm toán vì những lý do:
- Kiểm toán viên không tìm kiếm một sự chắc chắn, chính xác tuyệt đối của
toán học.
- Bằng chứng thu thập từ một nguồn được xác minh bởi các bằng chứng thu
thập được từ các nguồn khác sẽ tăng thêm độ tin cậy của Kiểm toán viên.
- Việc kiểm tra toàn bộ số liệu có thể vẫn chưa cung cấp được sự chắc chắn
tuyệt đối vì có thể có những nghiệp vụ không được ghi chép.
- Chi phí cho việc kiểm tra toàn bộ các bút toán trong ghi chép kế toán để
chứng minh cho mọi bằng chứng kiểm toán là không kinh tế.
Vì những lý do trên, mẫu kiểm toán được sử dụng một cách thông dụng và
phổ bi