Nhưmọi quốc gia trên thếgiới, BHXH Việt Nam trong những 
năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà 
nước, luôn được sựquan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà 
nước; điều này có thểdễdàng lý giải bởi BHXH không chỉliên quan 
đến hàng triệu lao động mà còn bởi nó có ý nghĩa rất lớn đối với cả
những người phụthuộc vào các đối tượng trên. BHXH chẳng những có 
ý nghĩa vềmặt kinh tế- xã hội mà còn có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, 
chính sách này thểhiện trình độvăn minh, tiềm lực kinh tếvà khảnăng 
tổchức quản lý của Nhà nước. 
Khi đất nước chuyển từnền kinh tếkếhoạch hoá tập trung sang 
nền kinh tếhàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơchếthị
trường có sựquản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì việc 
bao cấp toàn bộcho hoạt động BHXH tỏra không còn phù hợp với 
tình hình mới. Đểtừng bước đổi mới công tác tổchức quản lý BHXH, 
chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 vềviệc ban hành 
điều lệBHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 vềviệc thành lập 
BHXH Việt Nam và các quyết định khác kèm theo vềviệc ban hành 
quy chếtổchức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Với mục đích 
thống nhất việc quản lý và thực hiện các chế độBHXH nhằm đảm bảo 
tốt hơn lợi ích của người lao động thì BHXH Việt Nam đã được thành 
lập trên cơsởthống nhất các tổchức BHXH ởtrung ương và địa 
phương thuộc hệthống BộLao động - TB&XH và Tổng Liên đoàn lao 
động Việt Nam nhằm giúp Thủtướng chính phủchỉ đạo công tác quản 
lý quỹBHXH và thực hiện chế độchính sách BHXH theo pháp luật 
hiện hành. Và đểgiải quyết tốt vấn đềtrên đảm bảo nguồn quỹchi trả
các chế độBHXH cho các đối tượng được hưởng trợcấp BHXH thì 
việc nâng cao hiệu quảthu quỹ đồng thời duy trì và phát triển nguồn 
quỹlà đòi hỏi bức bách khiến em đi đến lựa chọn nghiên cứu đềtài: 
"Thực trạng thu nộp quỹBHXH và một sốbiện pháp nhằm nâng cao 
hiệu quảthu nộp quỹBHXH Việt Nam hiện nay" 
Những nội dung chính của đềtài: 
1
Lời mở đầu 
Phần I. Khái quát chung vềBHXH và quỹBHXH 
Phần II. Thực trạng công tác thu nộp quỹBHXH Việt Nam trong 
thời gian qua. 
Phần III. Một sốbiện pháp nhằm nâng cao hiệu quảthu nộp quỹ
BHXH
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 81 trang
81 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
ĐỀ TÀI: “Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và 
một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu 
nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay” 
MỤC LỤC 
Lời mở đầu 1 
I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH.....................................................3 
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH............................................................3 
1.2. Quá trình phát triển của BHXH...................................................................4 
1.3. Bản chất của BHXH..................................................................................15 
1.4. Chức năng và tính chất của BHXH...........Error! Bookmark not defined. 
1.5. Quỹ BHXH................................................................................................15 
II. Thực trạng công tac thu nộp quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua.31 
2.1. Quy định về thu nộp quỹ BHXH Việt Nam..............................................47 
2.2. Tình hình thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay....................................55 
2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động BHXH trong và ngoài nước.....65 
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH............65 
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH...........................................69 
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội...................................70 
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH...............................................71 
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động ngành BHXH..72 
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH......................................73 
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi..........................................74 
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý................................75 
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH.................................................76 
Kết luận 77 
Tài liệu tham khảo 31 
 LỜI MỞ ĐẦU 
Như mọi quốc gia trên thế giới, BHXH Việt Nam trong những 
năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà 
nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà 
nước; điều này có thể dễ dàng lý giải bởi BHXH không chỉ liên quan 
đến hàng triệu lao động mà còn bởi nó có ý nghĩa rất lớn đối với cả 
những người phụ thuộc vào các đối tượng trên. BHXH chẳng những có 
ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, 
chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực kinh tế và khả năng 
tổ chức quản lý của Nhà nước. 
Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang 
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì việc 
bao cấp toàn bộ cho hoạt động BHXH tỏ ra không còn phù hợp với 
tình hình mới. Để từng bước đổi mới công tác tổ chức quản lý BHXH, 
chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 về việc ban hành 
điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập 
BHXH Việt Nam và các quyết định khác kèm theo về việc ban hành 
quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Với mục đích 
thống nhất việc quản lý và thực hiện các chế độ BHXH nhằm đảm bảo 
tốt hơn lợi ích của người lao động thì BHXH Việt Nam đã được thành 
lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và địa 
phương thuộc hệ thống Bộ Lao động - TB&XH và Tổng Liên đoàn lao 
động Việt Nam nhằm giúp Thủ tướng chính phủ chỉ đạo công tác quản 
lý quỹ BHXH và thực hiện chế độ chính sách BHXH theo pháp luật 
hiện hành. Và để giải quyết tốt vấn đề trên đảm bảo nguồn quỹ chi trả 
các chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH thì 
việc nâng cao hiệu quả thu quỹ đồng thời duy trì và phát triển nguồn 
quỹ là đòi hỏi bức bách khiến em đi đến lựa chọn nghiên cứu đề tài: 
"Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao 
hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay" 
Những nội dung chính của đề tài: 
 1
 Lời mở đầu 
Phần I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH 
Phần II. Thực trạng công tác thu nộp quỹ BHXH Việt Nam trong 
thời gian qua. 
Phần III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ 
BHXH 
Lời kết 
Mặc dù em đã rất cố gắng nghiên cứu nhưng do trình độ và kinh 
nghiệm còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì 
vậy em rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các thầy cô giáo 
và các bạn 
Em xin chân thành cảm ơn ./. 
Hà Nội, ngày 4 tháng 11 năm 2000 
Tác giả 
Nông Hữu Tùng 
 2
 PHẦN THỨ NHẤT 
 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH 
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
BHXH 
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH 
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và 
đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao 
động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra 
ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn 
thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những 
nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả 
năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con 
người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện 
sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất 
lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất 
thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm 
đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả 
năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v... Khi rơi vào 
những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì 
thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm 
một số nhu cầu mới như: cần được khám chứa bệnh và điều trị ốm đau; 
tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v... 
Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài 
người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau 
như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ công đồng; đi vay, đi xin 
hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v... Rõ ràng, những cách đó 
là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. 
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công 
trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, 
nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có 
 3
 một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cu thiết yếu khi 
không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v... Trong thực tế, nhiều khi 
các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một 
đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một 
lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - 
thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam 
kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động 
nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng 
ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng 
được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải 
đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ 
dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền 
đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên 
phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước 
khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải 
những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà 
rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người 
lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ 
cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra 
bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, 
nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh 
chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm 
bảo. 
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt 
chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. 
Như vậy BHXH ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày 
càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành 
viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia BHXH, nó trở thành 
quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu cầu 
tất yếu khách quan. 
2. Quá trình phát triển của BHXH 
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển chính sách về 
BHXH trên thế giới 
 4
 BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính xã 
hội từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm được hình 
thành ở Anh vào năm 1819 với tên gọi "Luật nhà máy" và tập trung 
vào bảo hiểm cho người lao động làm việc trong các xưởng thợ. Vào 
năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở Đức. Cũng tại Đức, một 
số các luật khác được hình thành, sau đó chẳng hạn luật tai nạn lao 
động hình thành năm 1884; luật bảo hiểm người già và tàn tật do lao 
động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH được thực hiện trên rất 
nhiều nước và trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động của 
Liên hợp quốc. Một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới hiện nay. Trong 
tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 
có ghi: "Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có 
quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền 
về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển 
con người".. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao động quốc tế 
ILO (một tổ chức cơ cấu trong liên hợp quốc) đã đưa ra Công ước 102 
quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của BHXH và những khuyến nghị các 
nước thành viên về việc thực hiện các tiêu chuẩn này. 
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển chính sách BHXH 
ở Việt Nam 
Như ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển của 
nền kinh tế hàng hoá, ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai trị, bọn 
thực dân Pháp hầu như không đề ra được những gì để bảo vệ các 
quyền cơ bản của con người. Không thực hiện được chế độ chính sách 
về BHXH đối với người lao động Việt Nam. Ngay sau cách mạng 
tháng 8 thành công trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam 
dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy 
định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên 
chức Nhà nước (có Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL 
ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp 
theo của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp 
năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền 
được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm 
thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm 
 5
 theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân 
ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. 
Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách 
BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc 
sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất 
lớn trong việc động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc 
kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước. 
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi 
nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. 
Sự thay đổi về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về 
chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp 
năm 1992 đã nêu rõ: "Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công 
chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển 
các hình thức BHXH khác đối với người lao động". Trong văn kiện 
Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới 
chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh 
tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, 
thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại 
hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên "Mở rộng chế độ BHXH đối với 
người lao động thuộc các thành phần kinh tế". Như vậy, các văn bản 
trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho 
việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường. Ngay 
sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ đã 
ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với 
người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ 
này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp 
phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành 
mạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi 
của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả 
nước. 
 6
 II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA BHXH 
1. Khái niệm BHXH 
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng 
của Đảng và Nhà nước. Chính sách BHXH đã được thể chế hoá và thực 
hiện theo Luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo 
vệ người lao động khi họ không còn khả năng làm việc. 
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần 
thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập 
từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc 
làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng một 
quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp 
phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, 
đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội". Chính vì vậy, đối tượng 
của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm 
hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của 
những người lao động tham gia BHXH. 
Đồi tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng 
lao động. Tuy vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế – xã hội cuả mỗi 
nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người 
lao động nào đó. 
Dưới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ 
người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, 
người sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ 
cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị 
giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, 
bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy 
định của pháp luật, hoặc chết. 
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản lý 
phí được hình thành từ đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao 
động và nguồn hỗ trợ của Nhà nước. 
Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục 
đích chính của các chế độ BHXH là trợ cấp vật chất cho người bảo 
hiểm khi gặp rủi ro đã được quy định trong luật. 
 7
 2. Những nguyên tắc của BHXH 
2.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để người lao động có thể 
duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời (ốm 
đau, thai sản, tai nạn lao động v.v... ). 
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó 
vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể 
hiện trước hết là sự bảo đảm bằng vật chất (qua các chế độ BHXH). 
Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới yếu 
tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của sự 
nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù 
số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là cơ số để bảo đảm 
cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất sức lao động hay cao 
tuổi). 
2.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện 
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian 
mức đóng bảo hiểm v.v...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò tổ chức, 
định hướng để người lao động và người sử dụng lao động hiểu được 
nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ về BHXH. 
Điều này được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản 
pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích 
mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có 
thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của một số 
nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH 
có điều kiện để phát triển và mở rộng hơn. 
2.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH 
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan 
đến việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ 
BHXH. Mức tối thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ 
(hàng tháng), mức thời gian tối thiểu để tham gia và được hưởng các 
chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa 
vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình quân, quảng đời lao động 
v.v... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế độ 
BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tắc này liên quan trức 
 8
 tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích người 
lao động và các tầng lớp xã hội tham gia. 
2.4. BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức 
tham gia và thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao 
động 
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị 
trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, 
thậm trí mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơI làm việc và thay đổi 
hợp đồng lao động cả vể nội dung đối, tác v.v… tạo ra những giai 
đoạn có thể vệ thời gian và không gian của quá trình làm việc. Điều 
này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho 
người tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một cách liên tục theo 
thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh 
hoạt cần thiết và thuận tiên cho người lao động tham gia vào các quan 
hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và 
thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan hệ 
BHXH đối với người lao động. 
2.5. Công bằng trong BHXH 
 Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong 
chính sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiên trong một thời gian 
dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có 
sự thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng người và mức 
hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo rõi và 
ghi nhận các vấn đề này không đơn giản nhất là trong điều kiện một hệ 
thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối tượng thành phần và 
khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy đảm bảo công bằng trong 
BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt đối . 
Sự công bằng, trước hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa đóng 
góp và được hưởng. Điều này được thể hiên trong nội dung và điều 
kiên tham gia trong từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công 
bằng còn đặt trongcác quan hệ xã hội giữa những người tham gia 
BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, ngành nghề 
khác nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm. 
 9
 Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà thực 
hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH. 
3. Bản chất của BHXH 
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau 
đây: 
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, 
nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị 
trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ 
nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. 
Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không 
vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. 
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan 
hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và 
bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động 
hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (Bên 
nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà 
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình 
họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. 
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc 
làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muố