Thực tế chứng minh rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình tất yếu nhằm đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất hợp lý phù hợp với lực lượng sản xuất . làm cơ sở để xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, nhất là 10 năm “Đổi mới” chúng ta đã thu được nhiều thành công bước đầu. Từ một nước có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Cùng với ngành nông nghiệp các ngành, các lĩnh vực khác như công nghiệp, ngoại thương, du lịch, ngoại giao . cũng đạt được những thành công nhất định góp phần đưa Việt Nam từ một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ lạm phát cao thành một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, ngày càng có vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Từ đó cho thấy hướng đi và bước đi của chúng ta là đúng đắn, tạo thế và lực mới cho một thời kỳ phát triển cao hơn.
Xu hướng quốc tế hoá cùng điều kiện cụ thể riêng đã tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như bên cạnh đó là nhiều thách thức, đặc biệt là khoa học công nghệ cả về mặt kỹ thuật và quản lý . Để có thể khai thác tối ưu các lợi thế hiện có cũng như phát huy hết khả năng của mình, bên cạnh các yếu tố như cơ chế chính sách, nhân lực . thì một trong những yếu tố không thể không có đó là vốn. Vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là cơ sở để các Doanh nghiệp có thể đổi mới thiết bị, tiếp thu các công nghệ mới . tạo ra năng lực sản xuất mới, nâng cao khả năng sản xuất, mở rộng thị trường. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có hai nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn vay và nguồn vốn huy động trong nước và nước ngoài, trong đó nguồn vốn huy động trong nước được xác định là có vai trò quyết định. Nguồn vốn trong nước được huy động qua hai kênh chủ yếu là thị trường tài chính và nguồn vốn tín dụng. Trong khi thị trường tài chính của Việt nam hiện nay đang từng bước ở giai đoạn hình thành thì việc khai thác và sử dụng có hiệu quả vốn từ kênh tín dụng, đặc biệt là sử dụng vốn đầu tư trung và dài hạn càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Xuất phát từ thực tế trên, sau quá trình học tập tại Học viện Ngân hàng và công tác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc ninh tôi đã chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Bắc ninh" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Đề tài này gồm 3 chương:
- Chương I: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn - Những vấn đề có tính lý luận.
- Chương 2: Thực trạng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc ninh.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nang cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Bắc ninh.
69 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
`
Lời mở đầu
Thực tế chứng minh rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình tất yếu nhằm đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất hợp lý phù hợp với lực lượng sản xuất ... làm cơ sở để xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, nhất là 10 năm “Đổi mới” chúng ta đã thu được nhiều thành công bước đầu. Từ một nước có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Cùng với ngành nông nghiệp các ngành, các lĩnh vực khác như công nghiệp, ngoại thương, du lịch, ngoại giao ... cũng đạt được những thành công nhất định góp phần đưa Việt Nam từ một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ lạm phát cao thành một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, ngày càng có vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Từ đó cho thấy hướng đi và bước đi của chúng ta là đúng đắn, tạo thế và lực mới cho một thời kỳ phát triển cao hơn.
Xu hướng quốc tế hoá cùng điều kiện cụ thể riêng đã tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như bên cạnh đó là nhiều thách thức, đặc biệt là khoa học công nghệ cả về mặt kỹ thuật và quản lý ... Để có thể khai thác tối ưu các lợi thế hiện có cũng như phát huy hết khả năng của mình, bên cạnh các yếu tố như cơ chế chính sách, nhân lực ... thì một trong những yếu tố không thể không có đó là vốn. Vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là cơ sở để các Doanh nghiệp có thể đổi mới thiết bị, tiếp thu các công nghệ mới ... tạo ra năng lực sản xuất mới, nâng cao khả năng sản xuất, mở rộng thị trường. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có hai nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn vay và nguồn vốn huy động trong nước và nước ngoài, trong đó nguồn vốn huy động trong nước được xác định là có vai trò quyết định. Nguồn vốn trong nước được huy động qua hai kênh chủ yếu là thị trường tài chính và nguồn vốn tín dụng. Trong khi thị trường tài chính của Việt nam hiện nay đang từng bước ở giai đoạn hình thành thì việc khai thác và sử dụng có hiệu quả vốn từ kênh tín dụng, đặc biệt là sử dụng vốn đầu tư trung và dài hạn càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Xuất phát từ thực tế trên, sau quá trình học tập tại Học viện Ngân hàng và công tác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc ninh tôi đã chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Bắc ninh" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Đề tài này gồm 3 chương:
- Chương I: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn - Những vấn đề có tính lý luận.
- Chương 2: Thực trạng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc ninh.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nang cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Bắc ninh.
Chương I:
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Những vấn đề có tính lý luận.
I. mở rộng tín dụng - một yêu cầu cấp thiết đôí với các Ngân hàng thương mại
Để hoạt động ngân hàng đạt được mục tiêu an toàn - hiệu quả và không ngừng phát triển, phục vụ đắc lực cho sự tăng trưởng của nền kinh tế; các ngân hàng thương mại nói chung, hệ thống Ngân hàng Đầu tư và phát triển nói riêng thường xuyên chú trọng đến chất lượng của tất cả các mảng nghiệp vụ kinh doanh.
Trong từng thời kỳ, căn cứ vào định hướng của Nhà nước, ngành và thực tế hoạt động của mình các ngân hàng có định hướng chiến lược kinh doanh và các giải pháp cụ thể cho từng loại nghiệp vụ, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng hướng đến mục tiêu đã định.
Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng luôn luôn chiếm một tỷ trọng lớn nhất, mang lại nhiều lợi nhuận nhất, song cũng hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy, có thể nói nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, tạo điều kiện để mở rộng tín dụng phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước là nhiệm vụ trọng tâm vừa mang tính chiến lược vừa là nhiệm vụ thường xuyên của các ngân hàng thương mại.
1 - Một số vấn đề lý luận chung về tín dụng
1.1 - Khái niệm và đặc trưng của tín dụng.
Theo quan điểm của Các Mác tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung cơ bản sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng, theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải trả cho người cho vay một khoản lợi tức dưới hình thức lãi sử dụng tiền vay.
Theo quan điểm này, tín dụng có những đặc trưng chủ yếu là tính thời hạn, tính hoàn trả, lòng tin.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của vốn tín dụng được thể hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
Theo quan điểm này thì đặc trưng cơ bản của tín dụng là lòng tin - sự tin tưởng, chỉ có trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau mới có sự thiết lập quan hệ tín dụng và lúc đó việc cho vay mới được thực hiện. Đồng thời các nhà kinh tế học hiện đại cũng thống nhất cho rằng sự vận động của tín dụng mang tính tạm thời, có thời hạn nghĩa là có sự hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi.
Như vậy quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại hoàn toàn đồng nhất với quan điểm của Các Mác. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh đến vấn đề cơ sở để thiết lập một quan hệ tín dụng đó là yếu tố lòng tin. Chỉ có dựa trên sự tin cậy lẫn nhau giữa người sở hữu và người sử dụng thì mới có sự vận động của vốn tín dụng và từ đó tín dụng mới thể hiện đầy đủ các đặc trưng của nó.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 10 ngày 12 tháng 12 năm 1997 thì " Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác"( điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng ).
1.2 - Chức năng của tín dụng :
Có nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra khi bàn về chức năng của tín dụng, song tựu chung lại các ý kiến đều có những điểm thống nhất cho rằng tín dụng trong nền kinh tế thị trường có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng phân phối lại tài nguyên và chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất.
a - Chức năng phân phối lại tài nguyên.
Như khái niệm đã nêu, tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Nhờ vào sự vận động của tín dụng, các chủ thể vay vốn có cơ hội để tập trung các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Hay nói cách khác, Các chủ thể này đã nhận được một phần tài nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng thông qua sử dụng vốn tín dụng.
b - Chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã tạo ra công cụ tiền tệ phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Công cụ tiền tệ do ngân hàng tạo ra qua con đường tín dụng bao gồm tín tệ ( tiền giấy và tiền kim loại) và bút tệ.
Nhờ vào công cụ nói trên mà tốc độ lưu thông hàng hoá được nhanh hơn và do vậy, hàng hoá đi từ hình thái tiền tệ vào sản xuất và ngược lại được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Với ý nghĩa đó, tín dụng đã thực sự thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế.
1.3 - Sự phân loại tín dụng:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân chia tín dụng thành những loại khác nhau, tạo thuận lợi cho quá trình quản lý của các Ngân hàng thương mại cũng như để có các cách tiếp cận khác nhau trong công tác nghiên cứu, lý luận.
a - Căn cứ vào thời hạn cho vay: Tín dụng được chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động của các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm , chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng mới các công trình dân dụng ( nhà ở) công trình công nghiệp ( nhà máy, xí nghiệp) hoặc mua sắm các dây truyền sản xuất, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn.
b - Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng.
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt, phương tiện đi lại...
c - Căn cứ vào sự đảm bảo trong cho vay.
- Tín dụng không đảm bảo ( tín chấp) là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc sự bảo lãnh của bên thứ 3 mà việc cho vay được tiến hành trên cơ sở lòng tin, uy tín của bản thân khách hàng.
- Tín dụng có đảm bảo là loại tín dụng mà khi cho vay bên cho vay đòi hỏi người vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3.
d - Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cấp bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản ( hiện vật) là loại tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng được cấp bằng tài sản.
đ - Căn cứ vào phương pháp cho vay.
- Tín dụng trực tiếp là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực tiếp hoàn trả nợ vay cho các ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp là loại tín dụng mà quan hệ tín dụng có thông qua (hay có liên quan) đến người thứ 3.
e - Căn cứ vào phương pháp ( Cách thức) hoàn trả.
- Tín dụng trả góp là loại tín dụng mà khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng trả một lần là loại tín dụng được thanh toán trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu là loại tín dụng mà người vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập.
Trong các khoản mục thuộc tài sản có của một ngân hàng thương mại, thông thường nghiệp vụ tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn nhất ( khoảng 70% tổng tài sản có ). Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng thương mại.
Cơ cấu tín dụng của các ngân hàng thương mại khác nhau là khác nhau. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính chất hoạt động của từng ngân hàng trước hết phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn huy động ( tài sản nợ ). Tuy nhiên nếu xét chung về từng thời hạn thì nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại chủ yếu là cho vay ngắn hạn ( dưới 12 tháng ).
1.4 - Nguyên tắc, điều kiện và đối tượng của tín dụng.
a - Nguyên tắc của tín dụng
Theo từng thời kỳ, thủ tục và điều kiện vay vốn có thể thay đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế, song những nguyên tắc cơ bản của tín dụng là không thay đổi, nó là sự thể hiện những đặc trưng cơ bản của tín dụng.
Hiện nay, theo Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 15 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng Nhà nưóc.
b - Điều kiện của tín dụng
Cũng theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1, điều kiện vay vốn được quy định cụ thể: Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Pháp luật; Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ vay trong thời hạn cam kết; Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Ngoài ra, người vay còn phải thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Theo các quy định trên đây thì khách hàng vay vốn gồm pháp nhân và cá nhân phải được pháp luật thưà nhận, cụ thể là pháp nhân phải được thành lập và đăng ký hoạt động hợp pháp, cá nhân phải có đầy đủ quyền công dân, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng đều phải trong phạm vi quy định của pháp luật. Đồng thời, khách hàng vay vốn phải đảm bảo trả nợ bằng hiệu quả của phương án đầu tư kinh doanh hoặc bằng khả năng tài chính tự có của mình thực hiện đầy đủ các quy định của ngân hàng cho vay trong quá trình vay vốn
c - Đối tượng của tín dụng:
Sự thiết lập quan hệ tín dụng suy cho cùng là nhằm đáp ứng nhu cầu của cả người đi vay và người cho vay, trong đó nhu cầu của người đi vay là nhu cầu bù đắp những thiếu hụt về vốn trong quá trình luân chuyển phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc nhu cầu tiêu dùng phát sinh. Như vậy, đối tượng của tín dụng chính là những nhu cầu thiếu hụt về vốn của các thể nhân hoặc pháp nhân trong đời sống xã hội. Theo quy định tại quy chế cho vay nói trên, đối tượng để các tổ chức tín dụng xem xét cho vay bao gồm giá trị vật tư hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và đầu tư phát triển; số tìền thuế xuất khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu mà giá trị lô hàng xuất khẩu đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay; số lãi tiền vay trả cho tổ chức tín dụng trong thời gian thi công, chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung và dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản lãi tiền vay được tính trong giá trị tài sản cố định đó.
1.5 - Chất lượng của tín dụng:
Với khái niệm và các vai trò của tín dụng như đã nêu trên đây thì quan niệm về chất lượng tín dụng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trực tiếp mà nó còn được thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của khách hàng vay, nói rộng hơn nó được thể hiện qua sự tăng trưởng và phát triển của các ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của khách hàng thì chất lượng tín dụng ngân hàng mới được đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ nét ở một số khía cạnh sau đây:
a - Chất lượngtín dụng nhìn từ phía khách hàng vay vốn Một khoản tín dụng được đánh giá có chất lượng đối với người vay khi khoản tín dụng đó bù đắp một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu thiếu hụt về vốn của khách hàng vay. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra nhịp nhàng, làm tăng sản lượng hàng hoá sản xuất ra, tăng vòng quay vốn và do đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b - Nhìn từ lợi ích xã hội:
Dưới giác độ này, tín dụng được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ và làm tăng hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp đơn lẻ, tạo điều kiện để những doanh nghiệp này thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước giải quyết được việc làm cho người lao động, tạo nên tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Đồng thời, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng sẽ góp phần tích cực vào việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu của xã hội và của từng thành viên sẽ được đáp ứng một cách tốt hơn.
c - Từ phía ngân hàng.
Với ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định thông qua các chỉ tiêu cơ bản sau đây:
- Phục vụ tốt sự phát triển của các ngành, các địa phương theo định hướng của Nhà nước qua từng thời kỳ.
- Các khoản tín dụng được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng, có hàng hoá, vật tư tương đương làm đảm bảo.
- Các khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi góp phần tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm thiểu các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, trên cơ sở đó, tăng doanh lợi cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2 - Vai trò của tín dụng và yêu cầu khách quan của việc mở rộng tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại.
2.1 - Vai trò của tín dụng:
Tín dụng tồn tại trong nhiều hình thái sản xuất khác nhau. ở bất kỳ một phương thức sản xuất nào, tín dụng cũng biểu hiện ra ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ. Với bản chất đó, tín dụng đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thông qua mối liên quan của nó với quá trình tái sản xuất xã hội.
a - Tín dụng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế.
Các nhà kinh tế học đã chứng minh rằng sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng đồng thời là môi trường cho tín dụng tồn taị và phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp hoạt động với tư cách độc lập với nhau, song giữa chúng có mối quan hệ với nhau thông qua trao đổi, mua bán để hình thành nên hệ thống kinh tế thống nhất. Do chu kỳ sản xuất và tính chất thời vụ ở mỗi doanh nghiêp, mỗi ngành kinh tế không giống nhau do đó có hiện tượng trong khi ở lĩnh vực sản xuất này, xí nghiệp này đang thừa vốn thì ở xí nghiệp khác ở lĩnh vực sản xuất khác lại thiếu vốn; ở ngành này đang thừa vốn do tính thời vụ thì ở ngành khác vốn lại đang là nhu cầu cấp bách...
ở mỗi xí nghiệp đơn lẻ có lúc thừa vốn, có lúc thiếu vốn nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì tại một thời điểm nhất định sẽ có hiện tượng một nhóm xí nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng và một nhóm xí nghiệp khác lại có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời cho sản xuất kinh doanh. Đây là hiện tượng khách quan tồn tại ngay trong quá trình tái sản xuất xã hội đồng thời là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính điều này đòi hỏi phải có tín dụng đóng vai trò cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn để cho quá trình tái sản xuất diễn ra nhịp nhàng, thông suốt và hiệu quả.
Nếu xét đặc điểm chu chuyển vốn trong quá trình tái sản xuất giản đơn thì hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời trong nền kinh tế sẽ được bù đắp lẫn nhau. Tuy nhiên, tái sản xuất là một quá trình thường xuyên mở rộng và phát triển vì vậy đòi hỏi phải có sự đầu tư mở rộng bằng vốn tiết kiệm. Trong cơ chế thị trường, tồn tại và phát triển luôn luôn gắn bó với nhau, vì vậy nhu cầu cho sản xuất không chỉ để duy trì mức sản xuất hiện có mà còn có nhu cầu để đầu tư phát triển. Đối với các đơn vị kinh tế, lợi nhuận tích luỹ để đầu tư có giới hạn, vì vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất cần thiết phải nhờ đến nguồn vốn trong xã hội. Nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu này là vốn tiết kiệm xã hội, bao gồm vốn tiết kiệm của các nhà kinh doanh, vốn tiết kiệm cá nhân và của Ngân sách nhà nước. Trong trường hợp này lại cần có vai trò của tín dụng và tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Như vậy, trong nền kinh tế hiện đại, đặc điểm tuần hoàn vốn và yêu cầu của quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải có sự tham gia của tín dụng.
b - Tín dụng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá:
Thông qua hoạt động của tín dụng với tính chất như là cầu nối giữa cung và cầu vốn, nhu cầu về vốn tín dụng của khách hàng được đáp ứng, bù đắp được những thiếu hụt tạm thời về vốn để thực hiện mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản suất như nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí nhân công...đối với các xí nghiệp sản xuất hoặc hàng hoá đối với các đơn vị thương nghiệp làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
c - Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian vừa là người đi vay đồng thời là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Trái lại, với tư cách là người cho vay ngân hàng cung cấp trở lại vốn tín dụn