Ngay từ khi Nhà nước ra đời Đảng nhà nước Bác Hồ đã rất quan tâm đến Thi đua, khen thưởng Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất ”, và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi đua. Phong trào thi đua yêu nước do Người khởi xướng và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh chóng phát triển thành phong trào sâu rộng và liên tục qua nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. “Thi đua, khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới, thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày”. Từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển của Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua càng thấy được vai trò, vị trí của công tác thi đua, khen thưởng trong việc phát triển bền vững của Công ty, dù ở lĩnh vực nào và thời điểm nào đều có sự đóng góp quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng.
Kể từ khi Luật Thi đua – khen thưởng ra đời đã từng bước đi vào cuộc sống và đã trở thành động lực mạnh mẽ động viên cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó có tập thể Cán bộ, công nhân lao động Công ty. Tuy nhiên khen thưởng chưa gắn chặt với công tác thi đua, chưa phát huy mạnh mẽ tác dụng khuyến khích động viên thi đua, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, và thực sự phong trào Thi đua còn nhiều vấn đề bất cập cần phải khắc phục. Nhằm hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng của Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, một trong những vấn đề đặt ra cần giải quyết là phải đổi mới công tác thi đua, khen thưởng và một số kiến nghị đối với công tác này.
Là một cán bộ Thường trực Hội đồng thi đua, khen thưởng Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, để kết thúc khóa học Giám đốc Doanh nghiệp tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác Thi đua – khen thưởng tại Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng” và mong rằng đề tài này có thể đóng góp phần nhỏ bé của mình vào hoàn thiện quản lý công tác thi đua, khen thưởng ở Công ty.
66 trang |
Chia sẻ: baohan10 | Lượt xem: 806 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác Thi đua – khen thưởng tại Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngay từ khi Nhà nước ra đời Đảng nhà nước Bác Hồ đã rất quan tâm đến Thi đua, khen thưởng Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất ”, và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi đua. Phong trào thi đua yêu nước do Người khởi xướng và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh chóng phát triển thành phong trào sâu rộng và liên tục qua nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. “Thi đua, khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới, thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày”. Từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển của Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua càng thấy được vai trò, vị trí của công tác thi đua, khen thưởng trong việc phát triển bền vững của Công ty, dù ở lĩnh vực nào và thời điểm nào đều có sự đóng góp quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng.
Kể từ khi Luật Thi đua – khen thưởng ra đời đã từng bước đi vào cuộc sống và đã trở thành động lực mạnh mẽ động viên cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó có tập thể Cán bộ, công nhân lao động Công ty. Tuy nhiên khen thưởng chưa gắn chặt với công tác thi đua, chưa phát huy mạnh mẽ tác dụng khuyến khích động viên thi đua, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, và thực sự phong trào Thi đua còn nhiều vấn đề bất cập cần phải khắc phục. Nhằm hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng của Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, một trong những vấn đề đặt ra cần giải quyết là phải đổi mới công tác thi đua, khen thưởng và một số kiến nghị đối với công tác này.
Là một cán bộ Thường trực Hội đồng thi đua, khen thưởng Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, để kết thúc khóa học Giám đốc Doanh nghiệp tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác Thi đua – khen thưởng tại Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng” và mong rằng đề tài này có thể đóng góp phần nhỏ bé của mình vào hoàn thiện quản lý công tác thi đua, khen thưởng ở Công ty.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở Công ty hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Công tác thi đua, khen thưởng của Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng từ khi có Luật thi đua – khen thưởng đến nay có tham khảo những thời kỳ trước đó.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài:
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng tại Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng.
- Là tài liệu giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở đơn vị tham khảo để thực hiện nhiệm vụ quản lý về công tác thi đua, khen thưởng.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Chương II: Thực trạng quản lý công tác thi đua, khen thưởng ở Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng.
Chương III: Những giải pháp hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng tại Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THI ĐUA KHEN THƯỞNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng.
1.1.1. Khái niệm thi đua.
"Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Luật Thi đua, khen thưởng - Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003.)
Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến công tác thi đua. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua tồn tại khách quan trong xã hội, người dạy "...Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua". Thi đua là một hiện tượng khách quan, là qui luật phát triển tất yếu trong quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó nảy sinh thi đua. Người nói: “ Tiến lên CNXH không phải muốn là tự khắc có, mà phải làm thế nào cho nó tiến lên, tức là phải lao động, lao động thiết thực. Tất cả mọi người phải lao động”. Nhằm nâng cao ý thức tự giác lao động, khuyến khích nhiệt tình, khả năng của mọi người trong xây dựng và kiến thiết đất nước, kêu gọi: “Người người thi đua, ngành ngành thi đua”. Đây chính là một cuộc vận động sâu rộng, toàn dân, toàn diện, tất cả cho lao động sản xuất. Nhằm phát động phong trào thi đua lao động đều khắp và tác dụng thiết thực, Người kêu gọi: “Mọi ngành, mọi người, mọi tổ chức phải ra sức thi đua, phải thực hiện khẩu hiệu: nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Phải chống tư tưởng bảo thủ, chống tác phong quan liêu, chống lãng phí”.
Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, thi đua yêu nước bao giờ cũng là phong trào thi đua tập thể của những công nhân, nông dân, trí thức, những người lao động tự mình làm chủ vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; mọi người mang hết nhiệt tình và khả năng của mình ra để xây dựng đất nước. Thi đua không phải là tranh đua. Không phải là giấu nghề, giấu nghề cho riêng mình, cho nhà mình. Trái lại trong thi đua phải giúp đỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm cho nhau để cùng tiến bộ, điều đó cũng thể hiện rõ thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua. Xuất phát từ ý nghĩa của phong trào thi đua mà Bác nhấn mạnh: “Thi đua phải lấy tinh thần yêu nước làm gốc”. Trên cơ sở đó mà xác định chỉ tiêu thi đua thiết thực rõ ràng, định mức phù hợp, kế hoạch thực hiện đơn giản, có nhiều biện pháp phong phú để động viên được nhiều người tham gia phong trào.
Nói như vậy thi đua có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả. Thông qua thi đua để giáo dục động viên mọi người, nâng cao lòng yêu nước, ý thức giác ngộ giai cấp, trách nhiệm công dân và tính cộng đồng xã hội.
1.1.2. Khái niệm khen thưởng.
Luật Thi đua, khen thưởng của Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003 đã nêu rõ: "Khen thưởng là việc nghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Khen thưởng là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội, gắn liền với thưởng phạt của nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau.
Bác Hồ đã chỉ thị “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng phải có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương...” khen thưởng còn là một chính sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó; tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Còn thưởng là tặng cho bằng hiện vật hoặc tiền... Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như vậy khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Khen thưởng và trừng phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con người là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con người, do đó khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao trong quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất.
Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy xã hội phát triển là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên mọi tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất và công tác.
Trong mỗi con người đều có mặt thiện và mặt ác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho mặt thiện sinh sôi, nảy nở như hoa mùa xuân, mặt ác phải đẩy lùi. Vì vậy công tác khen thưởng là một nội dung không thể thiếu được của công tác thi đua, nó đã tác động, thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước phát triển đạt tới những đỉnh cao qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, góp phần giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Qua khen thưởng đã xuất hiện bao tấm gương tập thể, cá nhân anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ thi đua trong 2 cuộc kháng chiến và bao tấm gương điển hình, tiên tiến “Người tốt, việc tốt” ... Trong giai đoạn hiện nay cùng với thi đua, khen thưởng giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, khen thưởng là sự động viên, biểu dương, ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân, đồng thời xây dựng, củng cố quốc phòng – an ninh. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khen thưởng còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, nền văn hoá mới, con người mới hoàn chỉnh và tốt hơn, thực sự làm cho mặt thiện trong mỗi con người ngày càng sinh sôi nảy nở như hoa mùa xuân và mặt ác ngày càng bị đẩy lùi.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng.
Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng lẫn nhau. Là hai thành tố hữu cơ của một quá trình dẫn đến một hiệu quả chung. Mối quan hệ đó biểu hiện:
Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm vụ trên cơ sở đó thực hiện khen thưởng, thực tế cho thấy:
-Ở đâu phong trào thi đua thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng phấn khởi và khen thưởng chuẩn xác, ngược lại ở đâu phong trào thi đua yếu, hoặc không có phong trào thi đua ở đó xã hội trì trệ công tác khen thưởng không chuẩn xác, quần chúng kém phấn khởi, thậm chí có những tiêu cực.
Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển, thực tế cho thấy:
-Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, công tác này được đánh giá khách quan, công minh trên cơ sở phong trào thi đua thì ở đó quần chúng phấn khởi, có được phong trào thi đua mới, tốt hơn và ngược lại.
Bác Hồ coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Bác thi đua phải toàn dân toàn diện, thường xuyên. Đặc biệt bác nhấn mạnh thi đua phải gắn với khen thưởng một cách đích đáng; khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục nêu gương; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng là: “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Như vậy có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới chính xác, mới có tác dụng giáo dục, nêu gương, động viên khuyến khích, hơn nữa còn tạo điều kiện cho đợt thi đua sau đạt kết quả cao hơn. Do vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng, thiếu chính xác, ít tác dụng.
Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen thưởng luôn bổ sung hỗ trợ cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá kết quả phong trào thi đua. Khen thưởng chính xác kịp thời có tác dụng động viên, giáo dục và nêu gương tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ phong trào thi đua phát triển sâu, rộng. Nếu khen thưởng không đúng không chuẩn xác sẽ làm mất tác dụng thậm chí còn ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua và dẫn đến tiêu cực trong phong trào thi đua, ảnh hưởng đến công tác khen thưởng.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản ánh kết quả trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến, khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể ; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong nước và ngoài nước có công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài sản của nhà nước của tập thể, của công dân... song việc khen thưởng này cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc.
1.2. Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng và nội dung công tác thi đua khen thưởng trong các doanh nghiệp nhà nước.
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Thi đua, khen thưởng là lĩnh vực hoạt động của xã hội cần có sự quản lý của nhà nước bởi vì:
- Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng triệu hàng triệu quần chúng nhân dân thông qua phong trào thi đua; huy động các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia các phong trào thông qua đó phát huy được nội lực của mỗi người, mỗi đơn vị, địa phương trong cả nước góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
- Thi đua là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội các ngành, các cấp, rất đa dạng, phong phú, đồng thời mục tiêu, hình thức, biện pháp thi đua thường xuyên cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
-Công tác thi đua, khen thưởng phải có sự quản lý của nhà nước thì mới có được sự thống nhất, tạo được sức mạnh và trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, công tác thi đua, khen thưởng đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nhà nước, do vậy nhà nước phải quản lý công tác này.
Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 03/5/1998 của Bộ chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng; kiện toàn và đổi mới tổ chức - cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua, khen thưởng, đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng..."
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Luật thi đua, khen thưởng đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005.
Điều 90 Quy định nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bao gồm:
“1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng;
2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng;
3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng;
4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng;
5. Sơ kết tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng;
6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng;
7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng;
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng.”
Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng.
1.3.1 Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nhà nước quản lý công tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Các văn bản của nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng. Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp nhân dân và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua, hành lang đó tạo ra sự thống nhất trong công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Suốt chiều dài hơn 60 năm xây dựng đất nước công tác thi đua, khen thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần xây dựng đất nước. [ Tham khảo Phụ lục 1 “Một số văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng” - Phần Phụ lục trang 1,2 ]
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể về công tác Thi đua khen thưởng của địa phương, đơn vị mình theo chức năng nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho phép để từng bước đưa Luật Thi đua, khen thưởng vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc.
1.3.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng.
Ngay sau khi giành được chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng. Điều này chứng minh rằng chính sách trong thi đua, khen thưởng được xác định rất quan trọng nhằm để động viên, khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội thi đua lao động, sản xuất và sáng tạo để phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Cuộc sống phát triển rất sinh động phong phú, phong trào thi đua, khen thưởng cũng không ngừng phát triển phong phú đa dạng nhất là ở các ngành, các địa phương cho đến cơ sở. Do vậy vấn đề đặt ra là việc xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng, phải đáp ứng kịp thời với sự phát triển cuộc sống xã hội thậm, chí của mỗi ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa phương và cơ sở.
Trong thời kỳ kháng chiến, đất nước còn nghèo và còn nhiều khó khăn, các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng chỉ nhằm động viên tinh thần là chủ yếu; đến nay, nền kinh tế đang phát triển, nhất là với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối với những cá nhân, tập thể có thành tích cống hiến được khen thưởng. Châm ngôn xưa đã được nhân dân ta đúc kết “Trăm đồng tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng”. Nó thể hiện sự trân trọng giá trị vật chất và tinh thần. Hiện nay trong cơ chế thị trường thì giá trị vật chất lại càng thể hiện được nguyên tắc “vật chất quyết định ý thức” có nghĩa là khen thưởng có tác dụng ngược trở lại thi đua.
Những vấn đề trên là cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động giúp chúng ta có cách nhìn mới về công tác thi đua, khen thưởng và cũng chính là cơ sở để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
1.3.3 Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Điều 12 và Điều 13 Luật Thi đua khen hưởng có nêu: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên truyền, động viên các thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua; Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, cổ động phong trào thi đua, khen thưởng”. Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp khi tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau.
Trong công tác thi đua, khen thưởng tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng là một khâu rất quan trọng vì thế trong Luật Thi đua, khen thưởng cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà nước cần phải quản lý.
Đối với cấp Trung ương, nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để các ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung của các quy định pháp luật đồng thời có sự hướng dẫn các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện các quy định pháp luật ấy. Trên cơ sở đó, các ngành, các cấp trong cả nước thống nhất nhận thức và hành động.
Nội dung này, vấn đề h