Thực trạng về đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996 - 2000

Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, để đạt được những mục tiêu đã đề ra, chúng ta luôn phải dựa vào những nguồn lực trong nước và những yếu tố huy động được từ nước ngoài. Một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế là vốn đầu tư. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu sử dụng vốn đầu tư, mức vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức tăng trưởng đã đề ra, lựa chọn phương án tối ưu để tăng trưởng kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đề cập chủ yếu trên góc độ nguồn vốn đầu tư để giải quyết vấn đề đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005. Với mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, đề tài có kết cấu thành các nội dung chính như sau: Phần I: Những lý luận cơ bản về vốn đầu tư Phần II: Thực trạng về đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2000. Phần III: Những dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005.

doc28 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng về đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, để đạt được những mục tiêu đã đề ra, chúng ta luôn phải dựa vào những nguồn lực trong nước và những yếu tố huy động được từ nước ngoài. Một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế là vốn đầu tư. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu sử dụng vốn đầu tư, mức vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức tăng trưởng đã đề ra, lựa chọn phương án tối ưu để tăng trưởng kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đề cập chủ yếu trên góc độ nguồn vốn đầu tư để giải quyết vấn đề đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005. Với mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, đề tài có kết cấu thành các nội dung chính như sau: Phần I: Những lý luận cơ bản về vốn đầu tư Phần II: Thực trạng về đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2000. Phần III: Những dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005. chương i : những lý luận cơ bản về nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế ở việt nam Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế : Bất kỳ một nền kinh tế nào cũng đòi hỏi nhu cầu tái sản xuất mở rộng, muốn có tái sản xuất mở rộng phải có tích lũy để đầu tư, đầu tư là quá trình, là điều kiện không thể thiếu để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành kinh tế, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Đầu tư là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế, chính đầu tư tạo ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải đạt được một tỷ lệ tích lũy nhất định trong GDP. Tỷ lệ tích lũy đó ngày càng phải cao theo sự phát triển của đất nước. Vốn đầu tư phải đạt đến một tỷ lệ nhất định là một tiền đề quan trọng, tạo ra sự chuyển biến của nền kinh tế. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và hệ số ICOR : Mô hình kinh tế Harrod - Dorma cho đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị kinh tế đó. Nếu gọi đầu ra là Y và tốc độ tăng trưởng của đầu ra là g, có nghĩa là: ^Y g = –– Yt Nếu gọi S là mức tích lũy của nền kinh tế thì tỷ lệ tích lũy trong GDP sẽ là: St S = –– Yt Vì tiết kiệm là nguồn của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm ( St= It ) do đó cũng có thể viết : It s = –– Yt Mục đích của đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất. Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, có nghĩa : ^Kt+n k = ––– ^Y hoặc It k = –– ^Y vì : ^Y It . ^Y It It –– = ––– = –– : –– Yt It . Yt Yt ^Y Do đó chúng ta có : s g = –– k k được gọi là hệ số ICOR. Hệ số này nói lên rằng: vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng nhà máy, trang thiết bị là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, các khoản tiết kiệm của dân cư và các công ty chính là nguồn gốc cơ bản của đầu tư. Các quan điểm cơ bản về vốn đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam : Đầu tư trong nước giữ vai trò quyết định, đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng: Vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định vì: Vốn đầu tư trong nước là yếu tố nội lực cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước là một trong những yếu tố đảm bảo sự phát triển bền vững xét về sự phát triển lâu dài. Đối với các vùng không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thì vốn đầu tư trong nước đảm bảo đầu tư đồng đều để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế cho cả nước. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng vì: Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải lúc nào vốn đầu tư trong nước cũng đáp ứng nhu cầu, vốn đầu tư nước ngoài là một điều kiện không thể thiếu để bổ sung cho sự thiếu hụt đó. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế hiện đại: + Giải quyết thêm công ăn việc làm, tạo thu nhập đáng kể cho người lao động và đóng góp một phần vào ngân sách Nhà nước. + Cùng với sự đầu tư phát triển là sự chuyển giao công nghệ - kỹ thuật mà đó là một trong những điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng, có hiệu quả cần phải có một tỷ lệ cân đối với vốn trong nước. Việc xác định tỷ lệ này phụ thuộc vào từng ngành và trình độ kỹ thuật của ngành mà vốn nước ngoài đầu tư vào. Trong giai đoạn đầu do nhu cầu vốn cần tập trung cho cơ sở hạ tầng và phát triển nông nghiệp nên tỷ lệ vốn đối ứng trong nước có thể thấp. Một đồng vốn nước ngoài cần từ 1 đến 1,5 đồng vốn trong nước. ở giai đoạn sau, khi nhu cầu đầu tư cần tập trung cao cho các ngành chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật nhiều thì tỷ lệ này tăng lên từ 1,5 đến 2 đồng vốn trong nước. Huy động và định hướng vốn đầu tư phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế : Hội nhập là xu thế tất yếu, là một nội dung của công cuộc đổi mới, là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào AFTA và APEC, đồng thời đang tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để gia nhập WTO. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế đòi hỏi chúng ta phải thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan, thực hiện những điều khoản chung, ... Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng phải dự báo được nhu cầu vốn đầu tư, lượng vốn huy động được trong nước và quốc tế trong thời kỳ thực hiện kế hoạch. Như vậy, bối cảnh quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu tăng trưởng. chương II : thực trạng đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở việt nam trong thời kỳ 1996 - 2000 Nhu cầu và thực trạng đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ 1996 - 2000: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1996-2000: Trong thời kỳ 1996-2000 mục tiêu tăng trưởng kinh tế là phải đạt được từ 9% - 10%/năm và GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi vào năm 2000 so với năm 1990. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô 1996 1997 1998 1999 ước 2000 Tăng trưởng GDP 9,3 8,2 5,8 4,8 6,7 Lạm phát 4,5 3,6 9,2 0,1 1,0 Xuất khẩu tăng 33,1 26,6 1,9 23,1 21,4 Thu ngân sách tăng 16,9 4,7 6,8 6,2 0,45 Tích lũy/GDP 17,2 20,1 21,4 24,6 25 Đầu tư nhà nước -2,8 10,2 7,5 14,2 Nhu cầu vốn đầu tư: Để đạt mục tiêu tăng trưởng 9%-10%/năm thì cần phải có ít nhất 41 - 42 tỷ đô la Mỹ, trong đó cơ cấu vốn đầu tư được phân chia như sau: Vốn đầu tư trong nước: 52% Vốn đầu tư ngoài nước: 48% Trong phần vốn đầu tư trong nước: Vốn ngân sách Nhà nước chiếm 21% tương đương 8,6 tỷ đô la Vốn tích luỹ từ hộ gia đình và lợi nhuận doanh nghiệp chiếm 31% tương với 12,8 tỷ đô la, Trong phần vốn đầu tư nước ngoài : ODA: 17% FDI: 30% Vay thương mại nước ngoài:1% Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư bằng nguồn vốn trong nước trong thời gian qua: Mặc dù nguồn thu ngân sách của Việt Nam có xu hướng ngày càng giảm về tỷ trọng so với GDP, đến năm 1998 chỉ còn chiếm 19%, năm 1999 là 18% nhưng Chính phủ vẫn cố gắng tìm mọi cách để đảm bảo nguồn chi cho xã hội, chi cho đầu tư vẫn được duy trì khoảng 5,5%GDP. Tuy vậy con số này vẫn còn thấp hơn so với nhiệm vụ đặt ra cho thời kỳ này là 6%. Tỷ trọng vốn đầu tư do các DNNN trong thời kỳ 1996-1999 chỉ chiếm khoảng 13% tổng vốn đầu tư xã hội. Như vậy thấp hơn nếu so với nhiệm vụ đặt ra là đảm bảo 16% tổng tích lũy nội bộ. Khu vực tư nhân của Việt Nam có xu hướng phát triển tương đối mạnh mẽ, khu vực này đã tạo nên 51% tổng GDP của cả nước, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước lên đến 26,4 tổng thu ngân sách. Tổng vốn đầu tư của các DNTN lên tới khoảng 12.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 3% GDP và 15% tổng đầu tư toàn xã hội. Từ năm 1997 đến nay nguồn tiết kiệm của dân cư theo ước tính hiện tại khoảng 90,46% các hộ gia đình có tiết kiệm và tổng tiết kiệm dân cư cả nước khoảng 66.000 tỷ đồng tương đương 21% GDP. Lượng vốn huy động ngày càng tăng, mỗi năm ước tính vào khoảng 18-19% thông qua đa dạng hóa hình thức huy động vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực đương cho người gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, nếu so sánh với con số tổng tiết kiệm dân cư thì vẫn còn rất khiêm tốn. Theo các chuyên gia ngân hàng ước tính thì khoảng 60% tiết kiệm của dân cư vẫn còn tồn đọng trong chính khu vực dân cư. Theo con số của Tổng cục thống kê và Ngân hàng Thế giới năm 1997-1998 thì khoảng 76% nguồn tiết kiệm dân cư còn tồn đọng, chưa được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài : Từ nguồn FDI: Theo kế hoạch đặt ra 1996-2000 thì lượng vốn FDI cần phải huy động là 12.450 triệu đô la (30% tổng đầu tư toàn xã hội), nhưng trên thực tế chỉ huy động được 9352 triệu đô la (75% nhu cầu) và xu hướng từ sau khủng hoảng tài chính khu vực thì lượng FDI càng giảm đi. Nếu thời kỳ 1995-1997, bình quân luồng vốn FDI đạt bình quân 2 tỷ đô la một năm thì đến năm 1999 chỉ còn 1,2 tỷ đô la. Đặc biệt là sự giảm sút đầu tư từ Nhật Bản và các nước Đông Nam á khác. Nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sút FDI trong thời kỳ qua một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước Châu á. Lượng vốn đầu tư từ các nước này chiếm 25% tổng vốn FDI vào Việt Nam nên khi các nước này gặp khó khăn về tài chính thì ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thu hút FDI của Việt Nam. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân chủ quan khác về phái Việt Nam. Đó là hệ thống pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài của Việt Nam chưa hàn thiện, kết cấu hạ tầng yếu kém, lạc hậu, các thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều cửa, ... Cơ cấu vốn FDI theo ngành giai đoạn 1996-1999 NGàNH Tỷ TRọNG VốN FDI Công nghiệp và xây dựng Trong đó: Công nghiệp nặng Dầu khí Công nghiệp nhẹ Xây dựng Nông - Lâm - Ngư nghiệp Trong đó: Nông lâm nghiệp Thủy sản Dịch vụ Trong đó: Khách sạn du lịch Dịch vụ Xây dựng văn phòng, căn hộ Xây dựng hạ tầng khu CN GTVT và bưu điện Văn hóa - Y tế - Giáo dục Tài chính, ngân hàng 62,1 19,0 12,2 13,8 4,8 11,9 6,9 6,3 0,6 10,7 0,2 9,4 3,3 2,9 1,0 3,4 tổng số 100,0 Qua bảng trên ta thấy cơ cấu đầu tư vẫn còn mất cân đối giữa các ngành và các vùng, tỷ trọng đầu tư chủ yếu và các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, ... Đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, kinh doanh du lịch,... có xu hướng tăng, trong khi đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất lại có xu hướng giảm. Từ nguồn vốn ODA : Để đảm bảo nức tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1996-2000 thì nhiệm vụ đặt ra đối với nguồn ODA là phải thu hút được 7,5 tỷ đô la đầu tư có hiệu quả. Khác với nguồn FDI, mặc dù dưới áp lực của khủng hoảng kinh tế châu á các nhà tài trợ vẫn cam kết không giảm nguồn vốn đối với Việt Nam. Bình quân mỗi năm, lượng ODA cam kết vẫn giữ ở mức 2,2-2,3 tỷ đô la, tức là nguồn vốn ODA cam kết cho Việt Nam giai đoạn 1996-2000 là khoảng 10 tỷ đô la. Tuy nhiên mức độ giải ngân so với con số đã cam kết còn quá thấp. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tỷ lệ giải ngân của thời kỳ 1995-1997 chỉ đạt khoảng 32-42%, thời kỳ 1998-1999 có mức cao hơn vào khoảng 60%. Với mức độ giải ngân như vậy chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu về vốn ODA của Việt Nam trong cả thời kỳ. Lý do cơ bản của tình trạng mức giải ngân thấp là do sự thiéu đồng bộ giữa luồng vốn cam kết chảy vào so với tốc độ sử dụng chi tiêu. Mặt khác, còn có những ls do về thủ tục hành chính rườm rà về xây dựng, phê duyệt, các thủ tục thực hiện dự án. Những năm đầu, tiến độ giải ngân thấp còn do lý do lúng túng về việc tiến hành các thủ tục giải ngân. Trong những năm vừa qua, lượng vốn ODA phân bổ theo ngành được sắp xếp theo thứ tự là năng lượng, giao thông, nông nghiệp và các lĩnh vực xã hội. Như vậy, có thể nói phần lớn ODA (80%) trong thời gian qua được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Lượng ODA đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn và các lĩnh vực xã hội khác có tăng lên nhưng vẫn chưa thể hiện được sự ưu tiên của nhà nước. Theo đánh giá của UNDP, lượng ODA trong thời kỳ 1996-2000, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội mới đạt 5,5% tổng ODA, trong khi đó theo quy định của Hội nghị Quốc tế về sử dụng ODA tại Hà Nội năm 1998 thì lượng này phải chiếm 20%. Nguồn vốn ODA đã bắt đầu được phân bố đồng đều hơn theo vùng. Đặc biệt, kể từ năm 1997 ODA đã được dành nhiều hơn cho các vùng nghèo đói, vùng núi cao và nông thôn. Tuy vậy, nhìn tổng thể thì tỷ trọng ODA dành cho các thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,... vẫn nhiều hơn đáng kể. Nếu tính chỉ tiêu ODA trên một người dân thì con số này ở Hà Nội là 16 đô la, ở Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn, khoảng 7 đô la. Trong khi đó ở các vùng núi phía bắc, con số này chỉ khoảng 4 đô la, đồng bằng sông Cửu Long là 2 đô la. Phân bổ ODA theo vùng lãnh thổ và một số tỉnh, thành phố Vùng ODA (Triệu USD) Tỷ lệ phân bổ 1996 1997 1998 1996 1997 1998 Vùng núi phía Bắc Đồng bằng sông Hồng Không kể Hà Nội Cả Hà Nội Duyên hải Bắc Trung Bộ Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Không kể TP.HCM Cả TP.HCM Đồng bằng sông Cửu Long Tổng cộng 51,3 78,4 48,8 29,6 43,9 39,2 23,8 54,2 29,9 24,3 36,1 327,2 77,9 89,0 56,3 32,7 62,8 61,9 17,6 69,6 32,2 37,4 58,0 437,1 128,6 192,6 120,6 72,1 61,1 62,3 26,5 118,6 68,5 50,0 105,1 695,2 15,6 23,9 14,9 9,0 13,4 11,9 7,2 16,5 9,1 7,4 11 100 17,8 20,3 12,9 7,4 14,3 14,1 4,0 15,9 7,3 8,5 13,2 100 18,5 27,7 17,3 10,3 8,8 8,9 3,8 17,0 9,8 7,2 15,1 100 Từ nguồn vốn vay thương mại nước ngoài: Vay thương mại nước ngoài là một hình thức mới mẻ ở nước ta nên quy mô sử dụng nguồn vốn này còn khá khiêm tốn và thất thường trong thời kỳ từ 1991 đến nay. Hiện nay, theo số liệu của một số chuyên gia tài chính thì khoản vay nợ của các doanh nghiệp ở Việt Nam khoảng 4 tỷ đô la, chủ yếu là vay ngắn hạn. Quy mô sử dụng nguồn vốn vay này ở Việt Nam còn thấp , chủ yếu là do cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, kinh nghiệm và trình độ quản lý vốn vay và trả nợ của các doanh nghiệp còn yếu kém. Vì vậy, nhìn chung, các doanh nghiệp chưa dám mạnh dạn vay nợ. Mặt khác, ở Việt Nam, thị trường chứng khoán trong nước chưa xuất hiện và thị trường chứng khoán quốc tế cũng chưa có nên càng gây khó khăn trong việc thực hiện nguồn vốn vay thương mại. II. Kết luận: Từ việc phân tích các khía cạnh đảm bảo vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2000 tôi có các kết luận chủ yếu sau đây: Trong 5 năm vừa qua hoạt động thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Lượng vốn huy động được từ các nguồn có xu hướng ngày càng gia tăng mặc dù có tác động từ các yếu tố trong nước và ngoài nước. Đồng thời quá trình cải cách kinh tế ngày càng vững chắc đã củng cố thêm nhiều niềm tin cho các nhà đầu tư và tăng thêm uy tín của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế. Đây là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh quá trình thu hút vốn đầu tư tăng trưởng. Tuy đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trong 5 năm vừa qua vốn đầu tư chỉ đáp ứng hơn 60% nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế. Vốn tồn đọng trong dân cư còn nhiều, vốn ngân sách nhà nước còn khá dàn trải và sử dụng chưa có hiệu quả, vốn ODA cam kết ở mức cao nhưng tốc độ giải ngân còn chậm,... Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Về khách quan, phải kể đến trình độ phát triển kinh tế thấp, chưa thực sự hội nhập được của nền kinh tế nước ta. Ngoài ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã phần nào làm chậm quá trình cải cách. Về mặt chủ quan, thì đó là môi trường chính sách còn nhiều điểm chưa nhất quán, chưa phù hợp, hệ thống cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý còn non yếu,... Tất cả những hạn chế trên đang dần được tháo gỡ với quyết tâm cao thực hiện một chiến lược phát triển kinh tế trong thập kỷ tới. chương iii: dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 cơ sở xác định mục tiêu và nhu cầu: Bối cảnh trong nước: Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế có tiến bộ, vốn nhàn rỗi trong dân còn khá nhiều là yếu tố thuận lợi trong chiến lược phát triển. Thời gian qua nguồn vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều, chưa được phát huy. Trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 50% của Trung Quốc, thì tỷ lệ tích lũy nội bộ của Việt Nam khoảng 25% GDP cũng chỉ bằng gần bằng 2/3 tỷ lệ của Trung Quốc (tức là khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tính bình quân đầu người của Trung Quốc gấp hơn ba lần nước ta). Do đó cần có những lựa chọn chặt chẽ, ưu tiên sử dụng vốn ngân sách vào phát triển có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội là chính, không để nền kinh tế bị "sa lầy" vào nhiều công trình quy mô lớn, đặc biệt là công trình công nghiệp vượt sức cân đối của nền kinh tế, chậm mang lại hiệu quả khi nguồn tích lũy vốn còn thấp. Bối cảnh quốc tế và khu vực: Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài tác động rất lớn hoặc quyết định đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tác động đó nhiều hay ít, mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia trong những hoàn cảnh cụ thể. Dòng vốn đầu tư là một trong những khía cạnh chịu sự ảnh hưởng của sự tác động đó. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đến các nước đang phát triển có suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, từ năm 1999 có xu thế phục hồi, song cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Trong những năm qua, toàn cầu hóa và tự do hóa đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Chỉ tính trong 8 năm từ 1991-1998, dòng vốn FDI đến các nước đang phát triển tăng 6 lần. Nếu năm 1991, tỷ lệ vốn FDI đến các nước đang phát triển chỉ chieems 25% trong tổng số vốn trên toàn thế giới thì đến năm 1998 con số này đạt 42%. Tỷ lệ vốn FDI so với GDP của các nước đang phát triển có xu hướng tăng, có 25 nước đang phát triển (có dân số trên 1 triệu người) đạt tỷ lệ này từ 2% trở lên. Tính đến hết năm 1999, FDI từ các nước châu á vào Việt Nam chiếm 67% vốn FDI của Việt Nam, trong đó các nước ASEAN khoảng 23%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông chiếm 40,5%. Tuy vậy, từ sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ, FDI của các nước trong khu vực giảm rõ rệt vì các công ty mẹ phá sản hoặc gặp khó khăn, từ 1999 bắt đầu phục hồi, song cạnh tranh trong thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay 3/4 vốn FDI trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển, do có sự liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ - Nhật Bản - Tây âu; 2/3 của số vốn FDI còn lại bị thu hút vào cấc thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, Braxin, Mêxico, Achentina, Ba lan, Chilê, Malaixia, Vênêzuêla, Nga, Thái Lan, trong khi đó các nước có thu nhập thấp chỉ tiếp nhận được khoảng 7% của số FDI còn lại, bằng 1/10 của 10 nước trên. Hàn Quốc và các nước ASEAN đã và đang cải thiện môi trường thu hút đầu tư FDI nhằm vươn lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Chính điều này tạo nên sự cạnh tranh và thách thức to lớn đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh môi trường đầu tư hiện nay so với các nước xung quanh bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro cao hơn các nước trong khu vực. Với thành tựu của công cuộc đổi mới, trong điều kiện hội nhập, nếu xử lý tốt các mối quan hệ đối ngoại, tạo ra tình thế mới cho đất nước thì khả năng thu hút FDI và gắn với nó là công nghệ tiên tiến hiện đại có thể tăng lên. Trái lại, nếu không phát huy tốt nội lực đi đôi với cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh thì có khả năng bị tiếp tục rơi vào thế yếu trong cạnh tranh thu hút vốn và công nghệ. Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi ODA đến các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần. Trong năm 1998, nguồn vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi đến các nước đang phát triển chỉ còn 32,7 tỷ USD, thấp hơn 12 tỷ USD so với năm 1990.
Luận văn liên quan