Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt
Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò
quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại
quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu và
cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá
nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may
Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang thời kì phát triển
mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị
trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò
“không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành
dệt may Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem
lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có
hiệu quả của Bộ Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt
may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng
ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt
may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng
ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,. biết làm ra các sản
phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô sơ đến máy
may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại,
điện tử, tự động hóa.Bằng chứng cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại
nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn
Phùng Xá(Hà Tây); Dệt Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ
Cẩm Mai Châu(Hoà Bình) Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới
manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước
ta là m ột nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu
những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc Hơn nữa dệt may
lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong những năm
gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt
Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt
Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc
mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3600 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Thực trạng xuất khẩu dệt may của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt
Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò
quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại
quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu và
cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá
nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may
Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang thời kì phát triển
mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị
trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò
“không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành
dệt may Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem
lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có
hiệu quả của Bộ Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt
may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng
ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt
may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng
ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,... biết làm ra các sản
phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô sơ đến máy
may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại,
điện tử, tự động hóa...Bằng chứng cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại
nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn
Phùng Xá(Hà Tây); Dệt Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ
Cẩm Mai Châu(Hoà Bình)…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới
manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước
ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu
những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc… Hơn nữa dệt may
lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong những năm
gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt
Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt
Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc
mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành dệt
may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng tốc” để theo
kịp các nước trong khu vực và trên Thế Giới. Thực tế cho thấy ngành dệt may Việt
Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của chính nó và so với các nước trong khu
vực. Tuy nhiên làm thế nào để ngành dệt của chúng ta “hoà nhập nhưng không hoà
tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ và các doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất
nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới
như vậy, Việt Nam nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng phải đối phó với
rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên cơ hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam được xem là một tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức năng bao quát
từ hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản
phẩm thuộc lĩnh vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên
quan đến đặc điểm, thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX - cơ quan đàu tàu của ngành dệt may nước
ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có một phần nguyên nhân cá nhân. May mắn được
sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không được trực tiếp
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được tiếp xúc với các chất
liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối quan tâm sâu sắc về đề tài
này. Cộng thêm niềm đam mê và cảm hứng đối với lĩnh vực thời trang trong nước và
quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án môn học này với hi vọng sẽ áp dụng được
những kiến thức kinh tế đã được học trên trường lớp vào thực tế.
II- NỘI DUNG
Chương 1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU DỆT MAY
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1.Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam:
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam :
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành có lịch sử phát triển lâu đời
ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi đã có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ. Trước khi thưc dân Pháp xâm lược
Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu.
Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều
khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được
thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam
Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hà Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà
máy hợp nhất lại thành “Công ty dệt vải Kinh Đông”. Chính phủ Thực dân Pháp thu
được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước tiến
đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là rất quan trọng,
kế hoạch và việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy trình: trước tiên, Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất,
số lượng, giá. Các doanh nghiệp dệt may căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu
vào trình lên Uỷ ban Kế hoạch về các doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu.
Sau đó, căn cứ vào những điều kiện sau này, Uỷ ban Kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản
lượng cho các doanh nghiệp nhuộm, ấn định về giá và thời gian giao hang. Dựa vào giá
cả và ngày giao hang, các doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu. Cuối
cùng, Uỷ ban Kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho các doanh nghiệp sợi sản xuất lượng
sợi cần thiết như kế hoạch được trình như trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm và
may rất mật thiết. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ trực tiếp, lâu dài giữa các doanh
nghiệp và sự chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy trì khá tốt. Tuy
nhiên, mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp khác
ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có Hiệp định thương mại gia công uỷ thác (Hiệp
định ngày 19/5) được ký kết giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Việt Nam vào năm
1986. Hiệp định này đã làm giảm hẳn nhu cầu sản phẩm đối với các doanh nghiệp
nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn
nứt. Từ mối quan hệ mật thiết trước đây trở thành quan hệ đối thủ cạnh tranh của nhau.
Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếukhiến cho sự phân ngành trong
ngành dệt - may Việt Nam chưa phát triển.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ
XX, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Vào đầu những năm 90,
các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành thị trường nhập khẩu
chính của Việt Nam , và từ năm 1993 khi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU
hình thành thì xuất khẩu dệt may tăng nhanh. Xem xét sự thay đổi của tổng giá trị sản
lượng hang dệt may từ năm 1995 đên năm 1999 cho thấy, trong 5 năm, tổng giá trị sản
lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế bình quân khoảng 12%/năm.
1.2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam:
Thứ nhất: chưa chủ động được nguồn nguyên liệu:
Nguồn nguyên phụ liệu cung cấp đầu vào cho ngành dệt may Việt Nam chủ
yếu phải nhập từ nước ngoài. Tỷ lệ nhập khẩu quá cao khiến giá thành hàng dệt may
Việt Nam cao hơn đối với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực từ 10
đến 15%.
Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng
kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25-30%/năm, tạo công ăn viêc làm cho
khoảng hơn 25 triệu lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong sản xuất như trồng
bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên phụ liệu lại chưa được chú
trọng đúng mức đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành trong thời
gian qua. Đây là một nghịch lý đối với một nước nông nghiệp có ngành dệt may đã trở
thành ngành truyền thống hang nghìn năm nay như Việt Nam.
Ngành dệt may nước ta đã có sự tập trung các xí nghiệp mang quy mô lớn
hàng nghìn công nhân thì lại “quên” không đầu tư cho ngành sản xuất nguyên phụ liệu.
Đối với ngành này khách hàng yêu cầu rất tỷ mỷ từng khâu thiết kế cho từng cái khuy,
màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu.
Tình hình sản xuất nguyên phụ liệu năm 2005
Chỉ tiêu Đơn vị tính Nguyên phụ liệu
1. Bông xơ 1000 tấn 30
2. Xơ sợi tổng hợp 1000 tấn 100
3. Sợi 1000 tấn
4. Vải lụa triệu m2
Tỷ lệ nội địa hoá (%)
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Nước ta có một lực lượng lao động lớn về số lượng nhưng đối với ngành này đã
chưa tận dụng hết được thế mạnh này, trong khi đó Trung Quốc - nước láng giềng và
cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế giới – hàng năm sản xuất gần một
vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Thứ hai: sử dụng hình thức gia công là chính:
Phần lớn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng sản
xuất lưu thông theo hợp đồng gia công uỷ thác (gia công). Do các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ thực hiện 3 công đoạn là cắt (cut), may (make), hoàn thiện (trim) nên hình
thức sản xuất lưu thông này được gọi là CMT. Theo hình thức này toàn bộ nguyên phụ
liệu đêù do khách hang nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam.
Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường áp dụng 2 hình thức xuất
khẩu, ngoài CMT là hình thức “xuất khẩu hang hoá theo điều kiện FOB (Free On
Lựu
chọn
nhà
cung
cấp
Mua
nguyên
phụ
liệu
Cắt,
may, tô
điểm
(CMT)
Xuất
khẩu
Thiết
kế sản
phẩm
Board)”. Hình thức này trái với CMT, theo hình thức này, chúng ta tự mua nguyên phụ
liệu rồi bán sản phẩm cho khách hàng nước ngoài.
Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu:
Trong nhiều lý do dẫn đến yếu kém về năng lực sản xuất của ngành may Việt
Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất
trong các doanh nghiệp may chỉ đạt mức độ trung bình, công nghệ cắt và may còn lạc
hậu. Công nghệ phục vụ các công đoạn phụ trợ, khâu giặt còn bất cập; công tác thiết
kế, công nghệ tạo mẫu của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu đã làm hạn chế
đến chất lượng, mẫu mã, và chủng loại sản phẩm.
Tính đến năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam có 126 xưởng may với
78.000 thiết bị may, cắt và hoàn tất các loại, trong đó các xưởng trình độ tiên tiến
chiếm 20%, xưởng trình độ trung bình khá chiếm 70% và xưởng trình độ trung bình
chiếm 10%. Một số xưởng thuộc công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, công ty
may Đức Giang, công ty may Phương Đông… đã có sử dụng phần mềm trong sáng tác
mẫu và thiết bị cắt vải của Mỹ, Đức…Ngoài ra còn có khoảng 200 xưởng may thuộc
doanh nghiệp Nhà nước khác có trình độ trung bình khá và trung bình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuẩt khẩu hàng dệt may Việt Nam:
1.3.1. Các nhân tố bên trong:
Có thể nói về ngành dệt may nói riêng, có rất nhiều các yếu tố bên trong một doanh
nghiệp có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên ở đây, với giơí hạn
về chiều dài của bản đề án này em chỉ xin đưa ra ba nhân tố chính, đó là: giá cả các yếu
tố đầu vào, giá cả sản phẩm, công nghệ:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Để tiến hành sản xuất , ngành dệt may cần các
yếu tố đầu vào. Giá cả các yếu tố đầu vào là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới giá
thành sản phẩm. Muốn hạ sía thành sản phẩm thì trước tiên phải tìm được các nguồn
đầu vào với giá rẻ:
- Nguyên phụ liệu: Như đã nói ở trên, nguyên phụ liệu ngành đến 90% là
phải nhập khẩu. Phần nguyên phụ liệu mà Việt Nam có thể tự cung cấp cho ngành dệt
may là rất thấp và chất lượng kém. Phần nguyên phụ liệu phải nhập khẩu với giá cao
này là nguyên làm giá cả của hàng hoá dệt may Việt Nam cao hơn so với các sản phẩm
cùng loại của các nước khác.
- Lao động: Có thể nói một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho ngành dệt may Việt Nam là chi phí lao động rẻ. Một đất nước với hơn 80 triệu dân
là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho ngành này. Ngoài những cán bộ có trình độ kỹ
thuật thì một số lượng lớn lao động phổ thông vẫn được ngành dệt may Việt Nam hiện
nay sử dụng. Ngành dệt may Việt Nam đang tận dụng đặc điểm này để hạ giá thành sản
phẩm.
Giá cả sản phẩm: Dù xét về phía cung hay cầu thì giá cả bao giờ cũng là
yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định nhất tới sản lượng hàng dệt may bán ở trong
nước hay nước ngoài. Xem xét với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu: giá cả hàng dệt
may Việt Nam vẫn thuộc vào loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới
như: Trung Quốc, Ấn Độ… Nguyên nhân chính của tình trạng này là do hàng dệt may
của Việt Nam chưa tự túc được nguồn nguyên phụ liệu và sản xuất với các trang thiết
bị còn yếu kém. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hai yếu tố hạ giá thành và nâng cao
chất lượng sản phẩm vẫn là điều kiện tiền đề cho hàng dệt may của Việt Nam có chỗ
đứng trên thế giới.
Công nghệ: Trong kinh doanh hiện đại, công nghệ là cách thức để cắt
giảm chi phí doanh nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc đầu tư,
đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, song nhìn chung, công nghệ thiết bị của ngành dệt may
vẫn còn lạc hậu. Thêm nữa công tác quản lý kỹ thuật của ngành còn thấp nên đã ảnh
hưởng tới năng lực sản xuất, chát lượng và giá thành sản phẩm khi xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài:
Năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức
Thương Mại thế giới WTO, sự kiện này đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội trong
kinh doanh hàng hoá nói chung và nhất là hàng hoá xuất khẩu dệt may, nhưng cũng có
không ít những khó khăn mà chúng ta cần tháo gỡ. Khi Việt Nam xuất khẩu hàng dệt
may ra thị trường nước ngoài, sẽ có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này:
Các hạn ngạch nhập khẩu và chính sách nhà nước đối với hàng nhập
khẩu của các nước nhập khẩu: Đây là yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam nói chung và VINATEX nói riêng cần tìm hiểu trước khi muốn xuất khẩu
hàng sang bất kỳ một quốc gia nào để điều chỉnh cho phù hợp. Sự kiên “quota dệt
may” đã có nhiều tác động thuận lợi cho hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam .
Thu nhập: thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tới lượng cầu của một loại
hàng hoá. Dựa vào thu nhập mà người ta phân chia hàng hoá ra làm hai loại: hàng hoá
thông thường và hàng hoá cấp thấp. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá giảm khi thu
nhập giảm, thì hàng hoá đó gọi là hàng hoá thông thường. Nếu nhu cầu về một loại
hàng hoá tăng khi thu nhập giảm, thì hàng hoá này được gọi là hàng hoá cấp thấp.
Một người được cho là ăn mặc đẹp hay ít ra là biết cách ăn mặc thì điều đầu tiên
là họ phải có một mức thu nhập kha khá, sau đó sẽ là các yếu tố về tính thẩm mỹ. Các
yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến sức mua của người dân trong một quốc gia. Hàng
hoá dệt may Việt Nam chủ yếu là phục vụ cho những khách hàng co mức thu nhập
trung bình khá.
Thị hiếu và phong tục tập quán của quốc gia nhập khẩu: Yếu tố rõ ràng
nhất quyết định tới nhu cầu khách hàng là thị hiếu. Qua thực tế, chúng ta có thể nói
rằng: hàng dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được những khách hàng khó tính nhập
khẩu. Một phương trâm xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là “ việc
kinh doanh có tính địa phương”. Có nghĩa là khi xuất khẩu bất kỳ một sản phẩm dệt
may nào thì các doanh nghiệp cũng đều quan tâm tới sở thích của khách hàng và phong
tục tập quán ở các thị trường khác nhau. Ví dụ như: ở thị trường EU, các sản phẩm của
chúng ta luôn cố gắng hoàn thiện ở các khâu chất lượng, mẫu mã, thiết kế để đáp ứng
tốt nhu cầu của những khách hàng khó tính này.
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam:
Việt Nam đang là nước ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đặc biệt với đường lối chính sách kinh tế mở, ưu tiên chú trọng tới phát triển xuất
khẩu của nhà nước ta đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của
ngành dệt may. Ngành dệt may đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong
nền kinh tế quốc dân cũng như trong tiến trình hội nhập kinh tế, nhất là về xuất khẩu.
Hiện nay, đối với Việt Nam, ngành dệt may có vị trí quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá đất nước. Hiện nay ngành này đang thu hút trên 3 triệu lao động,
trong đó 80% là nữ, lao động trong công nghiệp dệt may chiếm khoảng 15% lao động
công nghiệp cả nước. Như vậy việc thu hút nhiều lao động trong dệt may có ý nghĩa to
lớn đối với bối cảnh nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì lực
lượng lao động thất nghiệp ở nước ta rất lớn, đời sống nhân dân nhiều nơi còn rất khó
khăn. Việc thu hút lao động cho ngành dệt may đã góp phần nâng cao đời sống dân cư,
góp phần tạo sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành,
vùng và lãnh thổ theo hướng tích cực.
Trong 10 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất nước ta thì công nghiệp dệt
may đứng thứ hai sau dầu thô. Trong thập kỷ 90, giá trị xuất khẩu của ngành tăng
27,3%/năm từ 178,7 riệu USD năm 1990 lên 1,892 triệ USD năm 2000, giá trị xuất
khẩu ngành dệt may chiếm 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của nhiều
ngành công nghiệp khác. Trong đó có ngành cung cấp nguyên liệu và các ngành sử
dụng sản phẩm của ngành dệt may.
Đối với xuất khẩu, xuất khẩu dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để
nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu cần thiết để phục vụ sản xuất và thực hiện các
mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dệt may là ngành khá dễ tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Hiện nay
các nước nhập khẩu đều có ưu đãi cho hàng dệt may, đặc biệt là hàng dệt may của các
nước đang phát triển. Hàng rào mậu dịch đối với các sản phẩm thuộc ngành này đã
được dỡ bỏ và nới lỏng rất nhiều.
Dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn có mặt tại hơn 50 nước trên thế giới,
ngành dệt may không chỉ giữ vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa kinh tế, hoà nhập vào
khu vực và thế giới, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng
sâu sắc giữa kinh tế nước ta và kinh tế thế giới.
Chương 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TẬP ĐOÀN
DỆT MAY VIỆT NAM - VINATEX
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển:
Việt Nam là nước nông nghiệp trồng lúa nước, do vậy ngành dệt may Việt Nam ra
đời muộn hơn so với ngành dệt may của các nước phát triển trên thế giới . Tuy vậy, từ
lâu Việt Nam cũng đã xuất hiện những làng nghề, vùng nghề dệt may khá phát triển:
V