Ngày nay, văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và
là động lực cho sự phát triển của đất nước. Đặc biệt, trong xu thế giao lưu, hội
nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp cần tạo được bản lĩnh cạnh tranh
cần thiết trong quá trình “vươn ra biển lớn”. Bên cạnh những nguồn lực như
vốn, nhân lực, trang thiết bị. thì rất cần đến nguồn lực văn hóa. Văn hóa
được coi là lợi thế cạnh tranh, là bản sắc để phân biệt doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác và cũng chính là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Và cái cốt lõi của văn hóa trong doanh nghiệp chính là thương
hiệu. Hiện nay, vấn đề thương hiệu rất được quan tâm, không chỉ ở thực tiễn
mà còn ở phương diện lý luận. Đồng thời, thương hiệu không chỉ là vấn đề
của kinh tế mà còn là của nhiều ngành khoa học quan tâm. Vì vậy, chúng tôi
quan tâm đến: Thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa học. Lí do chúng tôi chọn đề tài này làm luận án tiến sĩ là bởi:
Thứ nhất, về phương diện lý luận. Hiện nay, đã có rất nhiều công trình
khoa học kinh tế, marketing, mỹ thuật, pháp luật, tâm lý, xã hội trong và
ngoài nước trao đổi, nghiên cứu về thương hiệu. Tuy nhiên, vẫn chưa có một
công trình nào tiếp cận thương hiệu theo quan điểm văn hóa học. Luận án
chúng tôi góp một cách tiếp cận mới về thương hiệu, xem thương hiệu như
thực thể văn hóa, vận hành và phát triển theo qui luật văn hóa. Là một thực
thể văn hóa nên thương hiệu có một cấu trúc với các thành tố quan hệ chặt
chẽ với nhau, được hình thành từ các quan hệ của doanh nghiệp (trong nội bộ
doanh nghiệp, quan hệ với khách hàng, với xã hội), nên thương hiệu còn được
nhìn nhận như yếu tố nội sinh của doanh nghiệp và có những tác động nhất
định đến đời sống tinh thần xã hội.
198 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Thị Thúy Vân
THƯƠNG HIỆU CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Thị Thúy Vân
THƯƠNG HIỆU CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62.31.06.40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TRI NGUYÊN
Hà Nội - 2015
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa học là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu của
luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận án
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... 1
MỤC LỤC ........................................................................................................... 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
Chương 1. LÝ THUYẾT TIẾP CẬN THƯƠNG HIỆU DƯỚI GÓC ĐỘ
VĂN HÓA HỌC.9
1.1. Một số thuật ngữ tiếp cận bình diện văn hóa của thương hiệu ............. 9
1.2. Quan điểm tiếp cận thương hiệu như một thực thể văn hóa ............... 19
1.3. Vai trò của thương hiệu dưới chiều cạnh văn hóa............................... 39
Tiểu kết chương 1............................................................................................. 46
Chương 2. CẤU TRÚC VĂN HÓA CỦA THƯƠNG HIỆU48
2.1. Biểu tượng dưới hình thức cái biểu đạt của thương hiệu.................. 511
2.2. Chuẩn mực và giá trị - cái được biểu đạt của thương hiệu ............... 677
2.3. Mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt của thương hiệu766
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 822
Chương 3. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA THƯƠNG HIỆU
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM..84
3.1. Hành trang văn hóa của thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam......... 844
3.2. Doanh nghiệp Việt Nam xây dựng văn hóa thương hiệu.................. 933
3.3. Giữ gìn và phát triển văn hóa thương hiệu - một số kiến nghị ....... 1122
Tiểu kết chương 3......................................................................................... 1277
KẾT LUẬN ................................................................................................. 12929
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ...... 1322
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 1333
PHỤ LỤC....142
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. CBĐ : Cái biểu đạt
2. CĐBĐ : Cái được biểu đạt
3. CNH - HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4. CNTT : Công nghệ thông tin
5. CNTB : Chủ nghĩa tư bản
6. CTQG : Chính trị quốc gia
7. ĐHQGHN : Đại học quốc gia Hà Nội
8. GS : Giáo sư
9. HCM : Hồ Chí Minh
10. HTX : Hợp tác xã
11. KHXH : Khoa học xã hội
12. Nxb : Nhà xuất bản
13. PTSX : Phương thức sản xuất
14. SG : Sài Gòn
15. TP : Thành phố
16. TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
17. VHNT : Văn hóa nghệ thuật
18. VHTT : Văn hóa thông tin
19. VN : Việt Nam
20. VS : Viện sĩ
21. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và
là động lực cho sự phát triển của đất nước. Đặc biệt, trong xu thế giao lưu, hội
nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp cần tạo được bản lĩnh cạnh tranh
cần thiết trong quá trình “vươn ra biển lớn”. Bên cạnh những nguồn lực như
vốn, nhân lực, trang thiết bị... thì rất cần đến nguồn lực văn hóa. Văn hóa
được coi là lợi thế cạnh tranh, là bản sắc để phân biệt doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác và cũng chính là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Và cái cốt lõi của văn hóa trong doanh nghiệp chính là thương
hiệu. Hiện nay, vấn đề thương hiệu rất được quan tâm, không chỉ ở thực tiễn
mà còn ở phương diện lý luận. Đồng thời, thương hiệu không chỉ là vấn đề
của kinh tế mà còn là của nhiều ngành khoa học quan tâm. Vì vậy, chúng tôi
quan tâm đến: Thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa học. Lí do chúng tôi chọn đề tài này làm luận án tiến sĩ là bởi:
Thứ nhất, về phương diện lý luận. Hiện nay, đã có rất nhiều công trình
khoa học kinh tế, marketing, mỹ thuật, pháp luật, tâm lý, xã hội trong và
ngoài nước trao đổi, nghiên cứu về thương hiệu. Tuy nhiên, vẫn chưa có một
công trình nào tiếp cận thương hiệu theo quan điểm văn hóa học. Luận án
chúng tôi góp một cách tiếp cận mới về thương hiệu, xem thương hiệu như
thực thể văn hóa, vận hành và phát triển theo qui luật văn hóa. Là một thực
thể văn hóa nên thương hiệu có một cấu trúc với các thành tố quan hệ chặt
chẽ với nhau, được hình thành từ các quan hệ của doanh nghiệp (trong nội bộ
doanh nghiệp, quan hệ với khách hàng, với xã hội), nên thương hiệu còn được
nhìn nhận như yếu tố nội sinh của doanh nghiệp và có những tác động nhất
định đến đời sống tinh thần xã hội.
5
Thứ hai, xuất phát từ điều kiện thực tiễn trong lĩnh vực xây dựng
thương hiệu ở Việt Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng. Hiện nay,
yếu tố văn hóa được xem là lợi thế để xây dựng thương hiệu và góp phần hỗ
trợ mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh nghiệp, đó chính là bài học thành
công của những doanh nghiệp phát triển ở Việt Nam như Viettel, Kimđan,
Vietnam Airline, Biti’s, Vinamilk, Minh Long, Co.op mart, Kinh Đô, Trung
Nguyên
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa
chưa thành công và chưa phát huy yếu tố văn hóa trong xây dựng thương
hiệu. Có những doanh nghiệp chỉ phô trương hình thức mà không quan tâm
đến xây dựng và duy trì cốt lõi giá trị văn hóa nên làm ăn gian dối, vi phạm
đạo đức kinh doanh, lừa dối khách hàng, đối tác... Bên cạnh đó, cũng có
những doanh nghiệp không quan tâm đến xây dựng hình thức cho thương
hiệu mình mà chọn cách “đánh cắp” biểu tượng thương hiệu khác. Điều này
không những làm thiệt hại cho các doanh nghiệp khác mà còn ảnh hưởng đến
niềm tin, tình cảm của người tiêu dùng, xã hội. Chẳng hạn như những nhãn
hiệu nước khoáng như La Vie, sản phẩm Con Heo Vàng của Công ty TNHH
thương mại VIC, slogan “Bạn của mọi nhà” của hệ thống siêu thị Co.op
Mart, tên của thương hiệu Vincom bị làm nhái ngay trong thị trường nội
địa. Ngược lại, cũng có những doanh nghiệp xây dựng được những giá trị,
chuẩn mực tốt đẹp nhưng chưa vươn xa, bảo vệ chưa đúng mức nên dẫn đến
nguy cơ bị thôn tính từ các doanh nghiệp khác trên thế giới, đó là những bài
học từ võng xếp Duy Lợi, Bitis', Nước mắm Phú Quốc, Kẹo dừa Bến Tre,
PetroVietnam, Trung Nguyên
Để góp phần lí giải và hạn chế được những thực trạng, đồng thời giúp
doanh nghiệp xây dựng văn hóa thương hiệu có hiệu quả hơn, luận án đã chọn
nghiên cứu thương hiệu doanh nghiệpViệt Nam dưới góc độ văn hóa.
6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Khẳng định tầm quan trọng của văn hóa đối với sự hình thành và phát
triển thương hiệu. Đồng thời, làm rõ vai trò của thương hiệu dưới chiều cạnh
văn hóa đối với sự phát triển doanh nghiệp và đời sống tinh thần của xã hội.
- Làm rõ được những vấn đề lý luận xoay quanh thương hiệu và cấu trúc
của thương hiệu theo cách tiếp cận của văn hoá học, đồng thời tiến hành khảo
sát văn hóa thương hiệu của một số doanh nghiệp Việt Nam (trên địa bàn Tp.
Hồ Chí Minh).
- Trên cơ sở khảo sát thực trạng xây dựng thương hiệu (trên bình diện
văn hóa), luận án rút ra những kết luận khoa học, những kiến nghị và những
gợi ý giúp các doanh nghiệp ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói
chung xây dựng văn hóa thương hiệu có hiệu quả hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thương hiệu của doanh nghiệp ở
Việt Nam nhìn từ góc nhìn văn hóa.
Cụ thể, luận án nghiên cứu thương hiệu như một thực thể văn hóa. Trước
hết, luận án xem xét thương hiệu với một cấu trúc văn hóa chặt chẽ giữa
chuẩn mực, giá trị và biểu tượng. Đồng thời, luận án nghiên cứu vai trò của
thương hiệu ở những chiều cạnh văn hóa. Và là thực thể văn hóa nên việc xây
dựng thương hiệu cần tuân theo những qui luật phát triển văn hóa, chịu sự tác
động những điều kiện lịch sử, bối cảnh đương đại. Không những thế, xây
dựng và phát triển thương hiệu phụ thuộc nhiều vào hoạt động văn hóa của
chủ thể thương hiệu cũng như sự tiếp nhận tích cực từ đối tượng người tiêu
dùng, xã hội.
7
3.2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu
Về mặt thời gian: Nghiên cứu thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam
được tiến hành từ thời điểm đổi mới cho đến nay (2014).
Về không gian: Nghiên cứu thương hiệu của một số doanh nghiệp Việt
Nam ở địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
Về nội dung nghiên cứu: Thương hiệu có nhiều cách tiếp cận nhưng luận
án nghiên cứu thương hiệu từ góc độ văn hóa học. Nội dung nghiên cứu cụ
thể sẽ được thể hiện qua 3 chương của luận án.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Luận án góp một góc nhìn mới về thương hiệu từ cách tiếp cận văn hoá
học. Qua đó, luận án làm rõ bình diện văn hóa của thương hiệu. Đồng thời,
khẳng định tầm quan trọng của thành tố văn hoá đối với sự phát triển của
thương hiệu cũng như nhấn mạnh vai trò của thương hiệu đối với sự phát triển
của doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Góp phần tác động đến nhận thức của cộng đồng hiểu thêm vai trò của
văn hóa đối với lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp.
- Góp một cái nhìn toàn diện, hệ thống trong nhận thức của doanh nghiệp
về xây dựng và phát triển thương hiệu. Thương hiệu là một thực thể văn hóa,
việc xây dựng thương hiệu phải là sự tổng thể, cần coi trọng yếu tố văn hóa và
tuân theo qui luật phát triển văn hóa, phải tính đến các điều kiện bối cảnh
đương đại.
- Bên cạnh đó, những tri thức, những kết luận là những gợi ý để các
doanh nghiệp tham khảo, phát huy bình diện văn hóa của thương hiệu và xây
dựng văn hóa thương hiệu một cách có hệ thống, hiệu quả hơn.
8
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận
Đối với đối tượng nghiên cứu là thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa học, chúng tôi lựa chọn quan điểm tiếp cận liên ngành.
Quan điểm tiếp cận này với sự đóng góp khoa học của nhiều ngành khác nhau
sẽ là một công cụ lý thuyết hỗ trợ việc nghiên cứu thương hiệu một cách toàn
vẹn và tổng thể hơn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để khai thác được nhiều chiều cạnh của đối tượng nghiên cứu, luận án đã
sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu định lượng
với công cụ là điều tra bảng hỏi để làm rõ khía cạnh xã hội của thương hiệu
và sự tác động của thương hiệu đến xã hội. Phương pháp định tính với công
cụ là phỏng vấn sâu, quan sát để tìm hiểu về chủ thể thương hiệu. Luận án còn
sử dụng thao tác nghiên cứu nguồn tư liệu cả chiều không gian lẫn thời gian
để có được những câu trả lời như văn hóa truyền thống có ảnh hưởng đến chủ
thể và đối tượng tiếp nhận thương hiệu và tác động gì trong việc lựa chọn
biểu tượng thương hiệu hay những giá trị, chuẩn mực
6. Kết cấu luận án
Luận án ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (2 trang), tài liệu tham
khảo (8 trang) và phụ lục (52 trang), luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết tiếp cận thương hiệu dưới góc độ văn hoá (39 trang)
Chương 2: Cấu trúc văn hoá của thương hiệu (35 trang)
Chương 3: Xây dựng và phát triển văn hoá thương hiệu doanh nghiệp Việt
Nam (44 trang)
9
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT TIẾP CẬN THƯƠNG HIỆU
DƯỚI GÓC ĐỘ VĂN HÓA HỌC
1.1. Một số thuật ngữ tiếp cận bình diện văn hóa của thương hiệu
1.1.1. Thuật ngữ văn hóa
Thuật ngữ văn hóa đã xuất hiện từ thời cổ đại và không ngừng được
hoàn thiện cả nội hàm cùng ngoại diện của nó. Văn hóa ngày càng phát triển
và tồn tại ở trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Tương ứng như thế, số
lượng định nghĩa, quan niệm của văn hóa cũng rất đa dạng và phong phú.
Trong bài viết Văn hóa – Tổng quan phê phán về các khái niệm và định
nghĩa, A.L Krober và Clyde Kluckhohn cho rằng tiếp cận khái niệm văn hóa
theo các giai đoạn lịch sử, có thể thấy ba giai đoạn trong quá trình sử dụng
thuật ngữ văn hóa:
- Đầu tiên, thuật ngữ này xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII ở một nhóm
các nhà nghiên cứu lịch sử mà Herder là người nổi tiếng nhất. Ở đây, văn hóa
vẫn mang ý nghĩa là sự tiến triển trong sự tu dưỡng, hướng tới sự khai sáng
nhưng phạm vi chỉ là một bước để tới xu hướng quan điểm mà Klemm đã viết
và từ văn hóa bắt đầu mang ý nghĩa hiện đại của nó.
- Giai đoạn thứ hai, bắt đầu gần như đồng thời với giai đoạn trên nhưng
có phần kéo dài hơn, là một xu hướng triết học chính thức, từ Kant tới Hegel
mà ở đó, văn hóa là mối quan tâm bị giảm sút. Nó là thời kỳ nở rộ cuối cũng
của khái niệm về tinh thần.
- Giai đoạn thứ ba từ khoảng 1859 trở đi, ở đây văn hóa ngày càng
được hiểu theo nghĩa hiện đại của nó. Nói chung là trong giới trí thức cũng
như ký thuật. Trong số những người khởi xướng là Klemm, nhà dân tộc học
và Burkhardt, một nhà lịch sử văn hóa. Và trong sự phát triển của nó có sự
10
đóng góp đáng kể của những nhân vật như Katian Rickert và Spengler” [103,
tr.21].
Trong số nhiều định nghĩa về văn hóa, để phù hợp với đối tượng nghiên
cứu luận án, chúng tôi chọn cách tiếp cận văn hóa từ góc độ biểu tượng.
GS Trần Quốc Vượng nhấn mạnh:
Hình thái văn hóa, là biểu tượng. Tiếng nói, một thành tựu văn
hóa lớn của loài người, là hệ thống biểu tượng. Nghệ thuật tạo
hình là một hệ thống biểu tượng khác. Chữ viết ra đời ở nhiều
nơi trong thời đại đồ đồng, sắt cũng là hệ thống biểu tượng mới.
Đồ vật dụng cụ cũng có thể có ý nghĩa biểu tượng. Tôn giáo
cũng bao hàm một hệ thống biểu tượng...” [107, tr.51].
GS Phạm Đức Dương cũng đã tiếp cận văn hóa với cấu trúc hai bậc:
- Cấu trúc bề mặt (được gọi là biểu tầng). Trên bình diện cấu trúc
bề mặt – hay biểu tầng người ta có thể phân loại thành hai hệ
thống: ký hiệu biểu thị và ký hiệu biểu tượng. Đương nhiên ở
đây không thể vạch một ranh giới rạch ròi mà có sự đan xen,
lồng vào nhau và có mối quan hệ tương tác. Hệ thống ký hiệu
biểu thị mang ý nghĩa trực tiếp thuộc tư duy khái niệm, tư duy
khoa học. Đó là hệ thống ngôn ngữ, chữ viết, tư tưởng, khoa học
công nghệ, hệ thống các ký hiệu xã hội như những thiết chế,
những phù hiệu, biển hiệu... Hệ thống ký hiệu biểu tượng mang
ý nghĩa gián tiếp bao gồm nghệ thuật, tôn giáo, phong tục tập
quán là những biểu tượng hàm nghĩa thuộc tư duy hình tượng.
Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt, vừa là hệ thống ký
hiệu biểu thị vừa là hệ thống ký hiệu biểu tượng
- Cấu trúc chiều sâu (được gọi là cơ tầng) là cấu trúc bên trong
của văn hóa, ít biến đổi. Nó là cái gốc điều chỉnh mọi sinh hoạt
11
đời sống giữ cho xã hội tính liên tục và tính ổn định và nằm sâu
trong tâm thức, trong đức tin tâm linh của con người. Đó chính
là những đức tin tâm linh, những hệ thống giá trị. Các giá trị
được chắt lọc và được kết tinh thành truyền thống của mỗi dân
tộc, được cộng đồng lựa chọn tạo nên bản sắc dân tộc và được
lưu truyền từ đời này qua đời khác, trở thành vốn quý giúp cho
dân tộc đó phát triển. Giữa biểu tầng và cơ tầng có mối quan hệ
tương tác, qui định lẫn nhau [23, tr.15-16].
Hai tác giả Mai Văn Hai và Mai Kiệm trong công trình Xã hội học văn
hóa cũng cho rằng: “Mặc dù có sự khác biệt rất đáng kể, song nhìn chung thì
các nền văn hóa trên thế giới đều có bốn thành phần cơ bản, là giá trị, chuẩn
mực, biểu tượng và ngôn ngữ” [33, tr.113].
Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu của chúng tôi về vấn đề thương
hiệu dưới góc độ văn hóa học (chúng tôi giả thuyết thương hiệu như một thực
thể văn hóa), luận án chọn cách tiếp cận văn hóa thông qua hệ thống biểu
tượng. Theo quan niệm của Unesco trong Toàn thư quốc tế về phát triển văn
hóa của Unesco thì: “Văn hóa là một tập hợp các hệ thống biểu tượng qui
định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp
với nhau, liên kết họ thành cộng đồng riêng biệt” [99, tr.164].
Như vậy, văn hóa là khái niệm rộng lớn, liên quan đến mọi hoạt động
của con người. Do hoàn cảnh lịch sử và góc độ tiếp cận văn hóa khác nhau
nên có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau về văn hóa. Nhưng dù có
nhiều góc độ tiếp cận và có nhiều cách định nghĩa văn hóa khác nhau nhưng
đều được thể hiện ở những phương diện sau đây:
Một là, khi nói đến văn hóa là nói đến hoạt động đặc thù của con người,
luôn gắn với con người và phản ánh con người thông qua hoạt động thực tiễn
và tinh thần.
12
Hai là, văn hóa chính là những hoạt động văn hóa nhằm sáng tạo các
giá trị vật chất và tinh thần, hướng tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Những
giá trị ấy được biểu đạt bằng hệ thống biểu tượng.
Ba là, các giá trị văn hóa được sáng tạo và lựa chọn có sự chi phối và
quyết định, định hướng phát triển đời sống xã hội. Do đó, văn hóa trở thành
nhu cầu thường xuyên của cộng đồng xã hội.
1.1.2. Thuật ngữ thương hiệu (Brand)
1.1.2.1. Nguồn gốc hình thành thuật ngữ thương hiệu
Thuật ngữ “thương hiệu” được hình thành xuất phát từ những biến
động phát triển của môi trường kinh tế, xã hội ở Mỹ và các nước tư bản Tây
Âu sau chiến tranh thế giới thứ II. Đó chính là sự mở rộng thị trường, sự phát
triển của hệ thống giao thông vận tải cũng như vai trò của quảng bá nhãn
hiệu. Đồng thời, sự ra đời của các trường phái mỹ thuật công nghiệp với ý
muốn khác biệt hóa doanh nghiệp và sản phẩm nhằm tăng thêm sức hấp dẫn
đối với khách hàng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, sự suy kiệt về
vật chất khiến cho sự đòi hỏi về chất lượng của sản phẩm và dịch vụ không
nhiều. Tuy nhiên, xã hội Tây Âu và Mỹ trong những năm cuối thập niên 1960
và sang thập niên 1970 lượng hàng hóa trở nên dư thừa. Người tiêu dùng đã
cảm thấy không thỏa mãn, họ đã có sự lựa chọn theo sở thích. Do đó, để tăng
thêm sức hấp dẫn đối với khách hàng, bên cạnh tính chất hữu dụng nội tại của
sản phẩm/dịch vụ thì cần đến sự phát huy sức hấp dẫn từ các yếu tố phi vật
chất, đó chính là thương hiệu. Theo cách nói của Jesper Kurde thì:
Trong một thời đại có sự thừa mứa về hàng hóa thì không thể
tiếp tục khoe những sản phẩm bằng cách chất đống hàng hóa lớn
hơn các đối thủ, cũng không thể giành chỗ bày hàng hay hô hào
lớn hơn người khác chỉ vì muốn người khác để ý và nghĩ đến.
13
Tâm trí của con người chính là nơi mà mỗi doanh nghiệp hướng
tới. Đó chính là thế giới của thương hiệu [81, tr.35].
Đồng thời, giữa thập niên 1970, khi xã hội Mỹ và Tây Âu, khi nhu cầu
về vật chất được đáp ứng đầy đủ thì xuất hiện tâm lý thích hào nhoáng, khoe
của để khẳng định và chứng minh vị thế cá nhân [81, tr.84]. Cho đến giữa
thập niên 1990, thương hiệu còn thể hiện ở vai trò bảo trợ an sinh xã hội,
khuynh hướng đề cao ý thức công dân trong tiêu dùng. Khuynh hướng này
được bắt nguồn từ những hiện thực sa thải công nhân tràn lan, ảnh hưởng môi
trường, bóc lột lao động trẻ em, vi phạm quyền con người làm xáo trộn dư
luận và tác động tiêu cực đến tâm lý của công nhân và cộng đồng.
Chính trong bối cảnh này mà hành vi tiêu dùng của con người đã hình
thành nên không gian văn hóa. Việc lựa chọn của con người thể hiện nhân
sinh quan cũng như lối sống [81, tr.97]. Thương hiệu đã ra đời như một tất
yếu để đáp ứng được những nhu cầu mới của người tiêu dùng của thời đại.
1.1.2.2. Khái niệm thương hiệu
Trong