Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, đứng trước rất nhiều những nguy cơ an ninh
(truyền thống và phi truyền thống), các nhà lãnh đạo của các quốc gia trong khu
vực đã có sự thay đổi lớn trong tư duy an ninh. An ninh toàn diện và An ninh hợp
tác dần chiếm ưu thế trong quá trình định hình chính sách an ninh của các nước
trong khu vực. Kết quả cuối cùng là sự ra đời một số các cơ chế đa phương, với số
lượng thành viên đông hơn nhiều so với các cơ chế trong chiến tranh lạnh. Chúng
ta có thể phân ra hai loại: Chuyên trách và không chuyên trách
ARF - Cơ chế chuyên trách tiêu biểu và duy nhất. Diễn đàn an ninh
ASEAN ra đời năm 1994. Tính đến 2007, ARF đã có 12 cuộc họp. Theo
lịch trình đặt ra, các thành viên của ARF đang cùng một lúc thực hiện 2
hoạt động: Xây dựng lòng tin (CBM) và Ngoại giao phòng ngừa (DP). ARF
thực sự là một diễn đàn cần thiết để các nước trong và ngoài khu vực trao
đổi quan điểm về các vấn đề an ninh. ARF đã góp phần không nhỏ trong
việc thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ giữa các đối thủ trong
chiến tranh lạnh, trong việc giải quyết các tranh chấp biên giới, lãnh thổ.
Tuy nhiên, ARF đã tỏ ra không đủ năng lực, hoặc phản ứng quá chậm trước
các vấn đề an ninh đòi hỏi phải nhanh nhạy, đặc biệt là những vấn đề an
ninh phi truyền thống. Đứng trước thực trạng như vậy, thậm chí, một số
chính khách còn đặt ra câu hỏi về số phận của ARF. Sau hơn 10 năm tồn
tại, ARF đang phải đối mặt với ít nhất 2 câu hỏi: i/ Tiếp tục tồn tại hay
không (to be or not to be)?; ii/ Nếu tiếp tục tồn tại, ARF đã đến lúc phải thể
chế hóa chưa?
8 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2967 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận An ninh châu Á - Thái Bình Dương những năm đầu thế kỷ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
An ninh châu Á-Thái Bình Dương
những năm đầu thế kỷ XXI
2
Tại sao các cơ chế an ninh đa phương khu vực chưa có hiệu quả như mong đợi???
I. Thực trạng môi trường an ninh khu vực
Sau hơn thập kỷ, kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình vận động của
QHQT tại châu Á-TBD đã tạo ra một môi trường an ninh khá đặc biệt: Ổn định
trong lo lắng.
1. Tính ổn định
Nhận định trên được hầu hết các học giả trong khu vực đồng tình. Sự điều chỉnh
chính sách của các nước theo hướng “mở cửa”, tăng cường đối thoại, hợp tác đã
tạo nên sự ổn định tương đối cho khu vực. Điều này thể hiện trên một số phương
diện sau:
Quan hệ giữa các nước lớn dần đi vào ổn định và tạo ra sự “cân bằng quyền
lực” tương đối
Những vấn đề gai góc nhất của khu vực đã được giải quyết như: vấn đề
Cămpuchia, quan hệ Việt-Mỹ, quan hệ Việt-Trung, quan hệ Đông Dương,
biên giới Nga-Trung, Việt-Trung, Việt-Cămpuchia, Trung Ấn …
Hầu hết những vấn đề có tính xung đột cao mà chưa thể giải quyết như vấn
đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan hay tranh chấp trên
Biển Đông thì dường như đều bị khoanh vùng khó có thể lan rộng
Đối thoại thực sự trở thành một thói quen hành xử của các nước trong khu
vực khi xử lý các vấn đề quốc tế
Hợp tác kinh tế sâu rộng đã tạo ra cơ sở vật chất cho các hợp tác an ninh
trên nhiều cấp độ
Về cấp độ vĩ mô, một bầu không khí hòa bình, đối thoại, hợp tác chiếm ưu thế
trong suốt thập kỷ qua.
2. Những bất trắc
Khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ bắt đầu trở nên bất ổn hơn dự
đoán, điều này có thể thấy qua một số vấn đề sau:
Trong quan hệ giữa các nước lớn, mô hình “Đối tác chiến lược” đã không
thể loại trừ được những xung đột, tuy ở cấp độ thấp, khiến cho an ninh khu
vực luôn ẩn chứa sự bấp bênh
Các điểm nóng tuy không dữ dội, xong thỉnh thoảng vẫn bùng phát, đặc
biệt là trên bán đảo Triều Tiên
Các nguy cơ phi truyền thống xuất hiện với tần xuất ngày càng cao, đặc biệt
là thiên tai, dịch bệnh và khủng bố quốc tế
Cạnh tranh kinh tế-thương mại ngày một gia tăng cũng khiến cho quan hệ
an ninh trở nên phức tạp
3
Xét cho cùng, khu vực chưa thực sự có một thiết chế rõ ràng có đủ năng lực
giải quyết những nguy cơ an ninh, đặc biệt là những nguy cơ phi truyền
thống
3. Các cơ chế an ninh đa phương
Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, đứng trước rất nhiều những nguy cơ an ninh
(truyền thống và phi truyền thống), các nhà lãnh đạo của các quốc gia trong khu
vực đã có sự thay đổi lớn trong tư duy an ninh. An ninh toàn diện và An ninh hợp
tác dần chiếm ưu thế trong quá trình định hình chính sách an ninh của các nước
trong khu vực. Kết quả cuối cùng là sự ra đời một số các cơ chế đa phương, với số
lượng thành viên đông hơn nhiều so với các cơ chế trong chiến tranh lạnh. Chúng
ta có thể phân ra hai loại: Chuyên trách và không chuyên trách
ARF - Cơ chế chuyên trách tiêu biểu và duy nhất. Diễn đàn an ninh
ASEAN ra đời năm 1994. Tính đến 2007, ARF đã có 12 cuộc họp. Theo
lịch trình đặt ra, các thành viên của ARF đang cùng một lúc thực hiện 2
hoạt động: Xây dựng lòng tin (CBM) và Ngoại giao phòng ngừa (DP). ARF
thực sự là một diễn đàn cần thiết để các nước trong và ngoài khu vực trao
đổi quan điểm về các vấn đề an ninh. ARF đã góp phần không nhỏ trong
việc thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ giữa các đối thủ trong
chiến tranh lạnh, trong việc giải quyết các tranh chấp biên giới, lãnh thổ.
Tuy nhiên, ARF đã tỏ ra không đủ năng lực, hoặc phản ứng quá chậm trước
các vấn đề an ninh đòi hỏi phải nhanh nhạy, đặc biệt là những vấn đề an
ninh phi truyền thống. Đứng trước thực trạng như vậy, thậm chí, một số
chính khách còn đặt ra câu hỏi về số phận của ARF. Sau hơn 10 năm tồn
tại, ARF đang phải đối mặt với ít nhất 2 câu hỏi: i/ Tiếp tục tồn tại hay
không (to be or not to be)?; ii/ Nếu tiếp tục tồn tại, ARF đã đến lúc phải thể
chế hóa chưa?
APEC – Cơ chế không chuyên trách tiêu biểu. Ra đời năm 1989, APEC
thuần túy là diễn đàn hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, có lẽ do số lượng thành
viên quá lớn, cũng như đứng trước nhiều vấn đề an ninh là hệ quả tương tác
của các vấn đề an ninh quân sự thuần túy với các vấn đề kinh tế, tiêu biểu
như vấn đề khủng bố quốc tế hay đói nghèo, APEC dần can dự vào các vấn
đề an ninh khu vực (như chống khủng bố quốc tế luôn có trong chương
trình nghị sự của APEC kể từ sau năm 2003). Nhưng có lẽ do đây là một tổ
chức kinh tế thuần túy nên những quyết định của APEC về an ninh, đương
nhiên, có những hạn chế nhất định.
ASEAN + 1, ASEAN + 3, Thượng Hải 5 (SCO-nay đã có 6 thành viên).
Các cơ chế này đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hợp tác an ninh
trong không gian hẹp là giữa các thành viên. Hạn chế lớn nhất của các cơ
chế này chính là sự bó hẹp về không gian hoạt động.
Đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên: Bắt đầu từ
năm 2003 quá trình đàm phán 6 bên thực sự mở ra một loại hình cơ chế đa
phương mới. Tuy chỉ ở dạng Adhoc, song các vòng đàm phán 6 bên thực sự
tạo ra cơ hội cho các bên tưởng như khó có cơ hội ngồi với nhau là Mỹ và
4
Bắc triều Tiên. Tuy nhiên, đây thực sự là một cuộc chạy marathon bởi tính
ràng buộc pháp lý rất thấp. Hơn nữa, để đạt được thỏa thuận trong phạm vi
6 bên là rất khó khi Bắc Triều Tiên luôn cảm thấy bị lép vế trước 3 nước
lớn. Sự hạn chế này của các vòng đàm phán, khiến nhiều người đã đặt ra
câu hỏi về sự chuyển giao vấn đề này cho ARF.
Đánh giá: Không thể phủ nhận sự hình thành các cơ chế an ninh đa phương đã
giúp đảm bảo sự ổn định tương đối cho khu vực trong suốt hơn thập kỷ qua. Tuy
nhiên, thực tế của khu vực đã đặt ra câu hỏi: Tại sao các cơ chế trên chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn và liệu có sự thay thế nào không?
II. Đặc điểm của những nguy cơ an ninh khu vực
1. Tính đa dạng
- Trong thời gian qua, trong khu vực xuất hiện rất nhiều dạng nguy cơ từ
truyền thống đến phi truyền thống, trong lĩnh vực kinh tế đến an ninh, trong
lĩnh vực văn hóa, tôn giáo đến ngoại giao, luật pháp. Nếu vào đầu thập niên
90 (TK XX), còn nhiều ý kiến cho rằng tại khu vực, xung đột tôn giáo là
không có, mà nếu có thì chỉ ở mức độ thấp. Sự kiện ở Thái Lan trong mấy
năm gần đây đã loại bỏ nhận định trên. Thậm chí, tình hình trong mấy
tháng đầu năm 2007 cho thấy, xung đột tôn giáo đang một leo thang ở Thái
Lan và dường như đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát của chính phủ mới;
- Tính đa dạng còn biểu hiện qua sự pha trộn của những nguy cơ. Lấy ví dụ
sự kiện Đông Timor, chủ nghĩa li khai là một thứ rất mới đối với khu vực
xong sự can thiệp của bên ngoài vào tình hình của một nước có chủ quyền
lại rất quen thuộc ở Đông Nam Á. Nạn cúm gia cầm xuất hiện cùng lúc với
những cơn sóng thần ở Indonesia v.v.
- Sự khác biệt của các nền văn hóa cũng như trình độ phát triển rất khác nhau
cũng làm gia tăng thêm tính đa dạng, phức tạp của những nguy cơ an ninh
tại CÁ-TBD
2. Tính khó xác định
- Đây cũng là một nét đặc trưng của kỷ nguyên toàn cầu hóa. Sự đan xen và
chuyển hóa của các nguy cơ nội tại (của một quốc gia) với các nguy cơ bên
ngoài (của khu vực và toàn cầu) khiến cho việc đối phó trở nên khó khăn
hơn.
- Mức độ liên kết thấp trong khu vực cũng làm cho việc xác định thời điểm
cũng như mức độ nguy hại hay loại hình nguy cơ càng khó định hình;
- Nguồn gốc của những nguy cơ vừa qua cũng rất khó xác định. Cho đến giờ
các nhà khoa học vẫn chưa xác định được tại sao SARCS lại có ở khu vực.
Hầu hết mọi người đều cho rằng, các sự kiện khủng bố ở Bali hay
Mindanao là tác phẩm của các nhóm hồi giáo cực đoan có liên hệ chặt chẽ
với mạng lưới Al Queada. Tuy nhiên, cũng rất khó xác định đó là những
nhóm người cụ thể nào trong xã hội. Chính quyền hoàn toàn bị động, chỉ
khi sự việc xảy ra rồi người ta mới có những biện pháp xử lý cụ thể
3. Tính dễ lan rộng
5
- Vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng của khu vực khiến cho khá nhiều
các nước trong và ngoài khu vực dính líu vào.
- Tuy tại CÁ-TBD có rất nhiều nước lớn can dự vì sự gắn bó các lợi ích.
Nhưng cũng chính sự dính líu rất phức tạp này khiến cho khả năng lan rộng
cũng lớn theo;
- Việc thiếu vắng những định chế, đặc biệt là những chế tài, khiến cho tình
hình sẽ rất khó kiểm soát. Khủng hoảng tài chính-tiền tệ tại Đông Nam Á
năm 1997 cho thấy mức lan tỏa của nguy cơ “quản lý tồi” nhanh đến mức
độ nào.
4. Sự chồng chéo của các cơ chế hợp tác an ninh
- Nếu so sánh với các khu cực khác (như với châu Âu chẳng hạn), khu vực
hiện đang có khá nhiều cơ chế nhằm đối phó với các nguy cơ an ninh,
chuyên trách và cả không chuyên trách. Mỗi cơ chế lại có những luật chơi
riêng của nó, do đó sự xâm lấn lẫn nhau là điều khó tránh khỏi
- Điều quan ngại là hầu hết những cơ chế này đều có tính pháp chế thấp. Do
đó , trong tương lai gần, các cơ chế này chắc sẽ tiến tới thể chế hóa hoặc sẽ
lại có một cơ chế mới ra đời. Ý tưởng thành lập Cộng đồng Đông Á là một
ví dụ minh chứng.
5. Tính tiềm tàng
- Trong so sánh với các khu vực như Balkan hoặc Trung Đông, tình hình
hiện nay của các điểm nóng trong khu vực có vẻ như đang ru ngủ các nhà
lãnh đạo trong khu vực;
- Ý chí và chính sách tập trung phát triển kinh tế của các quốc gia trong và
ngoài khu vực (có liên quan), ở những mức độ nhất định, đã góp phần khiến
những nguy cơ trên “mềm” đi hoặc chưa có cơ hội bùng phát.
III. Những hạn chế của các cơ chế an ninh đa phương hiện tại
Bên cạnh những thành công bước đầu có tính đột phá, giờ đây khá nhiều ý kiến có
tính hoài nghi đối với những cơ chế hiện hữu hoặc chí ít kêu gọi phải thế chế hóa
các cơ chế này. Xuất phát từ mong mỏi muốn thấy một môi trường hòa bình, ổn
định và thịnh vượng, đương nhiên, cộng đồng khu vực muốn có sự tiến triển hơn
nữa trong việc giải quyết các nguy cơ, trước hết là các điểm nóng. Một thực tế,
như trong trường hợp cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997, các cơ chế
hiện có của khu vực chưa chứng tỏ là có đủ năng lực để giải quyết. Hoặc trong
thời gian xảy ra khủng hoảng ở Đông Timor, ARF đã phải nhường vai trò cho
LHQ. Lý giải điều này, nhiều học giả, đặc biệt là các học giả Mỹ, cho rằng nguyên
nhân chủ yếu hạn chế năng lực của các cơ chế đa phương tại khu vực là do tính
ràng buộc pháp lý thấp. Trên cơ sở đó, họ nhấn mạnh đã đến lúc phải thể chế hóa
cao hơn các cơ chế hiện có, trước hết là ARF.
Chúng tôi lại cho rằng, nguyên nhân trên chỉ là một trong số nhiều lý do dẫn đến
tính hiệu quả thấp của các cơ chế. Chúng ta hãy lấy ví dụ OSCE (Tổ chức hợp tác
an ninh châu Âu), một tổ chức an ninh đa phương thường được lấy ra làm ví dụ
mẫu mực đối với các dạng hợp tác an ninh. Rất nhiều học giả và chính khách ca
ngợi về tính thể chế cao của OSCE và cho rằng đây là điều kiện tiên quyết đảm
6
bảo an ninh khu vực. Tuy nhiên, OSCE rõ ràng đã bất lực trong quá trình giải
quyết xung đột tại Balkan. Những quyết định của OSCE vẫn để lại những nguy cơ
tiềm tàng tại Kosovo sau khi gây sức ép buộc Milosevich phải ra đi. Chúng ta thử
tưởng tượng những gì có thể xảy ra sau khi ARF thể chế hóa. Điều đầu tiên chắc
chắn là có sự đụng độ giữa ARF với nguyên tắc truyền thống “Không can thiệp
vào công việc nội bộ” của ASEAN. Điều tiếp theo là việc thể chế hóa liệu có dẫn
đến sự công bằng không hay lại đưa đến sự áp đặt bất công đối với các nước nhỏ
(giống như J. Rossnau đã nhận xét: “Mọi quốc gia đều bình đẳng những có một số
bình đẳng hơn)
Để lý giải rõ ràng hơn vấn đề này, chúng tôi cho rằng nên nhìn nhận từ chính
những đặc điểm của các nguy cơ đối với môi trường an ninh khu vực. Bởi một lẽ
hiển nhiên là, các cơ chế sẽ trở nên hữu ích khi và chỉ khi chúng đáp ứng được
những đòi hỏi nảy sinh từ chính những nguy cơ này.
1. Đối với tính đa dạng của các nguy cơ
Đặc điểm này đòi hỏi phải có những cơ chế đa năng (như dạng LHQ). Tính đa
năng không chỉ thể hiện về số lượng (thành viên) mà còn về chất lượng (tiềm lực
tài chính). Chúng ta hãy lấy ARF và APEC làm ví dụ. Cả hai cơ chế này đều có
tính chuyên trách cao nhưng cũng chính vì thế, đứng trước các nguy cơ đa dạng
các cơ chế này không thể có được phản ứng tức thì. Mặt khác, khả năng huy động
tài chính của các cơ chế này cũng không cao do tính lỏng lẻo của chúng. Sự hạn
chế của của ARF thường được lý giải bởi sự đơn giản của nó (đặc thù của các
Diễn đàn). Ban đầu APEC cũng chỉ là Diễn đàn kinh tế đơn thuần. Từ sau 2001,
APEC bắt đầu đưa vấn đề khủng bố quốc tế vào chương trình nghị sự. Tuy nhiên,
để có những hành động cụ thể hơn trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế,
APEC chưa thể đưa lại một quyết định có tính pháp lý cao bởi nó chưa có một cơ
quan chuyên trách. Trên hết, tiêu chí ban đầu của APEC là các mục tiêu hợp tác
kinh tế chứ không phải an ninh. Nếu APEC đưa ra một quyết định nào về an ninh
thì sẽ được triển khai ra sao, tính ràng buộc pháp lý cao đến mức độ nào vẫn sẽ là
những câu hỏi chưa có lời giải đáp trong thời gian ngắn tới.
Một câu hỏi được đặt ra là liệu có khả năng sát nhập, hoặc chí ít là sự phối hợp
chặt chẽ hơn, giữa APEC và ARF? Điều này không phải hoàn toàn không có khả
năng xảy ra. Tất nhiên hiện nay đây vẫn là một điều chưa thể do khác biệt, trước
hết, về mặt cơ chế.
2. Về tính khó xác định và dễ lan rộng của các nguy cơ
Hầu hết các cơ chế hiện tại đều làm việc trên nguyên tắc đồng thuận. Quá trình để
tiến tới sự nhất trí cao của các thành viên, vì thế, thường đòi hỏi mất nhiều thời
gian. Đặc biệt là đối tượng của các chương trình nghị sự sẽ phải rõ ràng. Trong khi
đó, liệu có sự nhất trí cao và nhanh không nếu đó là những vấn đề vừa phức tạp
vừa không rõ ràng như phòng chống tội bệnh dịch hay khủng bố quốc tế v.v. Để
có thể thành công trong việc ngăn chặn những nguy cơ này , đối với các cơ chế đa
phương đòi hỏi phải có tính thể chế hóa cao và tính chuyên trách cao. Liệu các
quốc gia trong khu vực có chấp nhận sự can thiệp từ bên ngoài, cho dù đó là
những quyết định của một cơ chế mà họ là thành viên.? Câu trả lời đơn giản là
7
không vì chưa đến lúc và vì chưa thành hình các thói quen như vậy. Ý tưởng thành
lập các “Cộng đồng” tại có lẽ, trước hết, là nhằm khắc phục hạn chế này.
Mặt khác, thành viên của các cơ chế hiện tại là hết sức đa dạng về mọi khía cạnh.
Tính đa dạng về lợi ích dĩ nhiên sẽ là một lực cản hết sức lớn đối với các quá trình
hợp tác kinh tế, an ninh hay văn hóa.
3. Về sự chồng chéo của các cơ chế
Xuất phát từ nhu cầu phát triển, các nước trong khu vực đều cần có một môi
trường hòa bình, ổn định. Chính vì thế, họ đều mong muốn sử dụng mọi cơ chế để
đáp ứng đòi hỏi trên. Chúng ta đã nói ở trên về việc chống khủng bố quốc tế cũng
trở thành vấn đề chiếm vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự của APEC
(vấn đề này còn được bàn đến ở Tổ chức Thượng Hải 6, ở ASEM, ASEAN + 1,
ASEAN + 3). Thực tế cho thấy, các thỏa thuận đạt được về cùng một vấn đề (như
chống khủng bố quốc tế) chắc chắn sẽ có sự khác biệt ở mỗi cơ chế. Chính sự
phức tạp này sẽ đem đến cho những người thực hiện những phiền toái, thậm chí
hiệu quả sẽ không còn như mong muốn nữa.
Đặc điểm nổi bật của các cơ chế khu vực hiện nay, theo chúng tôi, là tính chuyên
trách (special) nhưng lại phải thực hiện chức năng của một cơ chế tổng hợp
(universal). Chính điều này khiến cho tính hiệu quả của chúng không như mong
muốn.
Tóm lại, tính hiệu quả thấp của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương là do sự
khác biệt giữa các chủ thể (về mọi mặt) và khả năng pháp lý thấp của chúng chưa
đủ sức đối phó với tính phức tạp của những nguy cơ.
4. Một số đề xuất
Để nâng cao hiệu quả của những cơ chế hợp tác đa phương của khu vực, chúng tôi
xin đưa ra một số gợi ý sau đây:
- Đã đến lúc phải nâng cao tính pháp lý ràng buộc các bên. Dĩ nhiên, quá
trình thể chế hóa các cơ chế, đặc biệt là những cơ chế hiện tại (trước hết
như đối với ARF), cần có được sự đồng thuận của các thành viên, cần phải
rất thận trọng để tránh làm tổn thương bất cứ bên liên quan nào, tránh thổi
bùng ngọn lửa nghi kỵ, thứ rất sẵn tại khu vực;
- Nên chăng có một cơ chế toàn diện hơn. Trong cơ chế này có thể có các bộ
phận chuyên trách theo từng vấn đề. Chúng tôi thấy, nếu ý tưởng thành lập
Cộng đồng Đông Á trở thành hiện thực thì có thể dựa trên chính Cộng đồng
này để phát triển tiếp thành một cơ chế toàn diện với tính pháp lý cao;
- Cần luôn coi đây là một khu vực có tính mở khi tiếp cận dưới góc độ an
ninh, do vậy việc mở rộng số lượng thành viên tham gia váo các cơ an ninh
là điều tất yếu. chúng tôi cho rằng trong thời gian tới cần chú ý đến việc bổ
xung các chủ thể phi Nhà nước, đây sẽ là những lực lượng mạnh trong cuộc
chiến chống những nguy cơ phi truyền thống.
Chú ý: Xin không trích dẫn, vì bài viết vẫn đang trong quá trình chỉnh sửa
.
8