Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã luôn chứng kiến và thừa nhận một thực tế là :cuộc sống của con người trên trái đất dù ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào, bất kỳ chế độ xã hội nào cũng luôn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống .Những rủi ro , bất hạnh , những khó khăn ngoài ý muốn đã luôn làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình cảnh yếu thế trong xã hội .
Để tiếp tục tồn tại và phát triển họ cần nhận được sự giúp đỡ của xã hội. Ổn định xã hội là tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia , đây là yếu tố quan trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và xã hội. Muốn ổn định xã hội nhà nước phải kết hợp chặt chẽ ,hợp lý giữa các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước , thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế , gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay , nước ta ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Đời sống của một bộ phận dân cư ngày càng nâng cao nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều người phải sống trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn do nhiều lý do như: phân hóa giàu nghèo ,thiên tai , lũ lụt.
Nhà nước ta với mục tiêu nhân đạo và tinh thần tương thân tương ái đã có nhiều hoạt động thiết thực thể hiện tinh thần đó nhằm hỗ trợ , giúp đỡ những con người đó vượt qua hoàn cảnh khó khăn để ổn định cuộc sống và hòa nhập lại với cộng đồng.Đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của ‘CỨU TRỢ XÃ HỘI’ ở nước ta.
30 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3008 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận An sinh xã hội - Cứu trợ xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận An Sinh Xã Hội.
Đề tài : “ Cứu trợ xã hội ở Việt Nam “
Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Mã sinh viên : CQ 492068
Lớp tín chỉ: An sinh xã hội 5
Lớp chuyên ngành: Kinh tế quốc tế 49A
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã luôn chứng kiến và thừa nhận một thực tế là :cuộc sống của con người trên trái đất dù ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào, bất kỳ chế độ xã hội nào cũng luôn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống .Những rủi ro , bất hạnh , những khó khăn ngoài ý muốn đã luôn làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình cảnh yếu thế trong xã hội .
Để tiếp tục tồn tại và phát triển họ cần nhận được sự giúp đỡ của xã hội. Ổn định xã hội là tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia , đây là yếu tố quan trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và xã hội. Muốn ổn định xã hội nhà nước phải kết hợp chặt chẽ ,hợp lý giữa các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước , thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế , gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay , nước ta ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Đời sống của một bộ phận dân cư ngày càng nâng cao nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều người phải sống trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn do nhiều lý do như: phân hóa giàu nghèo ,thiên tai , lũ lụt...
Nhà nước ta với mục tiêu nhân đạo và tinh thần tương thân tương ái đã có nhiều hoạt động thiết thực thể hiện tinh thần đó nhằm hỗ trợ , giúp đỡ những con người đó vượt qua hoàn cảnh khó khăn để ổn định cuộc sống và hòa nhập lại với cộng đồng.Đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của ‘CỨU TRỢ XÃ HỘI’ ở nước ta.
Khái quát chung về cứu trợ xã hội.
1.Khái niệm cứu trợ xã hội
Có nhiều khái niệm về cứu trợ xã hội đươc đưa ra dưới nhiều góc độ quan điểm khác nhau nhưng hiểu một cách tổng quát thì cứu trợ xã hội được hiểu là “sự giúp đỡ của xã hội băng nguồn tài chính của nhà nước và của cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu,..dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường”
Cứu trợ xã hội là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, là hoạt động của nhà nước và cộng đồng, bao gồm hai hoạt động : cứu tế xã hội và trợ giúp xã hội. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng bằng hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ cần thiết cho người được trợ cấp khi họ rơi vào hoàn cảnh bần cùng khó khăn, không còn khả năng tự lo liệu cuộc sông như : người già không nơi nương tựa, người không còn khả năng lao động, không có bất kỳ một nguồn thu nhập nào đảm bảo cuộc sống hàng ngày…trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội , bằng các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sông cho bản thân và cho gia đình, sớm hòa nhập trở lại với cuộc sống cộng đồng.
2.Đặc trưng của cứu trợ xã hội:
Cứu trợ xã hội có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất : đối tượng được cứu trợ có phạm vi rộng, toàn dân.
Thứ hai : người được nhận cứu trợ không phải đóng góp vào quỹ tài chính. nguồn quĩ dùng để trợ cấp được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp của cộng đồng.
Thứ ba : mức trợ cấp không đồng đều mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và được thẩm định bằng việc thẩm tra đánh giá thu nhập, vốn và tái sản của người được xét trợ cấp.
Thứ tư : trợ cấp có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
3. Vai trò của cứu trợ xã hội
Tùy thuộc vào điều kiện , hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi nước mà họ đặt vai trò của cứu trợ xã hội ở vị trí khác nhau…nhưng nhìn chung vai trò cứu trợ của cứu trợ xã hội được nhận định chung là :
Cứu trợ xã hội cung cấp ,hỗ trợ thu nhập cho các nhóm dễ bị tổn thương để giúp họ đối phó với những khủn khoảng bất ngờ, vượt qua được khó khăn trong cuộc sống và tồn tại trong xã hội…
Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của những cá nhân và những dân cư yếu thế. Điều này được thể hiện rõ qua hoạt động trợ giúp xã hội, hoạt động này thường tập trung vào nhóm dân cư bị thua thiệt nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng, từ đó giúp họ thoát ra khỏi cảnh nghèo, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn dai dẳng trong cuộc sống…vd phụ cấp gia đình có thể giúp trẻ em trong các hộ gia đình không bị mất cơ hội đến trường do khó khăn về tài chính của gia đình.
Góp phần làm cho sự bảo vệ của hệ thống an sinh xã hội được toàn diện hơn : chương trình cứu trợ xã hội cùng với bảo hiểm xã hội.
Hệ thống cứu trợ xã hội ở Việt Nam
1.Quá trình phát triển cứu trợ xã hội ở Việt Nam.
Từ xưa đến nay, dù dưới thời nào, hoạt động cứu trợ ở nước ta luôn được đặt lên hàng đầu và được xác định là một phương sách quan trọng để duy trì sự ổn định và phát triển
Trước cách mạng tháng tám cứu trợ xã hội được thể hiện dưới các hình thức:
Lập ra quĩ ruộng quĩ thóc công dành cho các phụ nữ góa và trẻ em mồ côi, dành cho những người nghèo khốn khó (chẳng hạn như những quả phụ điền, cô nhi điền, trợ sưu điền, nghĩa điền)
Lập ra các phường hội theo quan hệ than tộc, quan hệ láng giềng, hay quan hệ nghề nghiệp khi các thành viên trong xã hội không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn (chẳng hạn như hội vạn chài, hội gặt lúa, hội dệt vải, hội hiếu…)
Tổ chức các hội cứu các hội tương tế để bênh vực cho công nhân các hội tế bần từ thiện.
Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã xác định cứu trợ xã hội là một trong những cơ chế bảo vệ quan trọng trong hệ thống ASXH nước ta, được đặt song song với cơ chế BHXH. Ngày từ đầu những ngày đầu đất nước giành được độc lập, mặc dù vẫn còn nhiêù khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động cứu trợ.
Đảng và Nhà nước kêu gọi phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Phát động nhường cơm sẻ áo, “hũ gạo cứu đói” để trợ giúp người nghèo.
Giảm tô, giảm tức và chia ruộng cho người nghèo, người neo đơn, tàn tật.
Thành lập Nhà cứu tế để đáp ứng cho nhu cầu thực hiện cứu tế xã hội
Bên cạnh đó, Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch.. do vậy đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. các hoạt động cứu trợ xã hội cũng dần dần được luật hóa với nhiều văn bản Pháp luật, Thông tư, Nghị định, và Bộ luật Lao động qui định về cứu trợ xã hội thường xuyên, đột xuất; qui định về việc trợ giúp dành cho người già, trẻ em đặc biệt khó khăn . Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội; Nghị định số 168/2004/NĐ-CP ngày 20 tháng 09 năm 2004 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội; Điều 6 Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật; Điều 6, Điều 9 Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi; Nghị định số 120/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi; Điều 5 Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 03 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi; Quyết định số 16/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 02 người trở lên không tự phục vụ được do bị hậu quả chất độc hoá học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam; các khoản 1, 2, 3 Điều 1 và khoản 1, 2, 3 Điều 2 Quyết định số 313/2005/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số chế độ đối với người nhiễm HIV/AIDS và những người trực tiếp quản lý, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS trong các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước…và gần đây nhất là Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP ngày 15/04/2007 về chính sách cứu trợ xã hội đã thay thế các nghị định trên…
Trải qua nhiều khó khăn thiếu thốn của đất nước nhưng hoạt động cứu trợ ở nước ta vẫn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá chung, Việt Nam được coi là nước luôn có các cam kết mạnh mẽ về sự phát triển xã hội. So với nhiều nước trong khu vực việt nam là nước có chương trình cứu trợ khá toàn diện. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo, yếu thế có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên hòa nhập với trong cộng đồng. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng với Nhà nước, của xã hội cơ chế cứu trợ xã hội của nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo yếu thế có thể vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt động này (chỉ tính riêng năm 2000) là 648,8 tỷ đồng và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng hai năm 2000 - 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800 nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.
Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói… đều có chính sách trợ giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm… và đặc biệt thường xuyên nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã hội. Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện đã thể hiện sự bình đẳng, công bằng xã hội.
2.Đối tượng cứu trợ và các hình thức cứu trợ ở việt nam.
Hoạt động cứu trợ ở Việt Nam bao gồm cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất; thưc hiện cứu trợ bằng tiền, cứu trợ bằng hiện vật, cứu trợ hỗn hợp.
2.1Cứu trợ xã hội thường xuyên.
Cứu trợ xã hội thường xuyên là sự giúp của Nhà nước và xã hội dành cho các thành viên trong cộng đồng về điều kiện sinh sống trong thời gian dài hoặc trong suốt cuộc đời của họ. Ở nước ta hiện nay, các đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên được qui định theo điều 4 trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/04/2007 như sau :
Đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng do xã, phường, thị trấn quản lý gồm:
Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo.Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên.
Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ).
Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình nghèo.
Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo.
Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo.
Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.
Hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ.
Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp dụng đến dưới 18 tuổi.
Các đối tượng trên được qui định mức độ trợ cấp của chế độ trợ cấp thường xuyên trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP với các điều khoản sau
Điều 7:1. Quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng tháng là 120.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi thì mức chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp.
2. Các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với từng nhóm đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại Nghị định này như sau:
Bảng 1.
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT
Đối tượng
Hệ số
Trợ cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 và đối tượng không có khả năng lao động quy định tại khoản 4 Điều 4 .
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con từ 18 tháng tuổi trở lên.
1,0
120
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 4 tàn tật nặng.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới 18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
1,5
180
3
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật nặng; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng không có khả năng tự phục vụ quy định tại khoản 4 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi dưỡng trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 2 người tàn tật nặng.
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới 18 tháng tuổi hoặc bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
2,0
240
4
Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em dưới 18 tháng tuổi; trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
2,5
300
5
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 3 người tàn tật nặng.
3,0
360
6
Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 4 người tàn tật nặng.
4,0
480
Bảng 2
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống trong các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT
Đối tượng
Hệ số
Trợ cấp
Đối tượng quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 Điều 4
2,0
240
Bảng 3
Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp
nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội:
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT
Đối tượng
Hệ số
Trợ cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 4.
2,0
240
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi.
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
2,5
300
Điều 8. Các đối tượng nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6; trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn tật trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định tại Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2005 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 03 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 9.
1. Trẻ em từ 13 tuổi trở lên sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng, không còn học văn hoá thì được giới thiệu đến các cơ sở dạy nghề để học nghề theo quy định hiện hành của Nhà nước.
2. Trẻ em mồ côi đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn hoá, học nghề; người tàn tật đã phục hồi chức năng; người tâm thần đã ổn định đang ở cơ sở bảo trợ xã hội được đưa trở về địa phương (nơi đối tượng sinh sống trước khi vào cơ sở bảo trợ xã hội). Ủy ban nhân dân cấp xã và gia đình có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm, ổn định cuộc sống.
3. Trẻ em bị bỏ rơi sống tại cơ sở bảo trợ xã hội đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn hoá, học nghề thì cơ sở bảo trợ xã hội và địa phương nơi cơ sở bảo trợ xã hội đặt trụ sở có trách nhiệm hỗ trợ tạo việc làm, nơi ở và tiếp tục cho hưởng trợ cấp cho đến khi tự lập được cuộc sống, nhưng không quá 24 tháng.
Điều 10. Ngoài được hưởng khoản trợ cấp hàng tháng theo quy định tại Điều 7 Nghị định này, các đối tượng nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6; trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng, người tàn tật không có khả năng tự phục vụ trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này còn được hưởng thêm các khoản trợ giúp sau:
1. Các đối tượng đang học văn hoá, học nghề được miễn, giảm học phí, được cấp sách, vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật.
2. Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng mức 2.000.000 đồng/người.
3. Các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước quản lý ngoài các khoản trợ giúp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này còn được:
a) Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày;
b) Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường; riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 150.000 đồng/người/năm;
c) Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Điều 11. Căn cứ điều kiện cụ thể của