Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác,
tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất
khẩu thừ nước này sẽ trở nên mắc hơn đối với đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền
của họ mạnh.Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm. Ngược lại, nếu đồng nội tệ của
một quốc gia giảm giá thì sẽ có tác dụng khuyến khích tăng xuất khẩu của quốc gia đó vì
đồng nội tệ giảm giá sẽ làm hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia đó trở nên rẻ hơn trước đối
với người nước ngoài.
Tuy nhiên trong tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại trong thực tế đôi
khi lại không diễn ra như trong lí thuyết nêu trên.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5402 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÊN
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI.
2
A/.Lý thuyết truyền thống:
Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác,
tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất
khẩu thừ nước này sẽ trở nên mắc hơn đối với đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền
của họ mạnh.Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm. Ngược lại, nếu đồng nội tệ của
một quốc gia giảm giá thì sẽ có tác dụng khuyến khích tăng xuất khẩu của quốc gia đó vì
đồng nội tệ giảm giá sẽ làm hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia đó trở nên rẻ hơn trước đối
với người nước ngoài.
Tuy nhiên trong tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại trong thực tế đôi
khi lại không diễn ra như trong lí thuyết nêu trên.
B/. Tóm tắt một số nghiên cứu trước đây.
Dưới đây là một tổng quan ngắn gọn cung cấp các phương pháp và kết quả của các
tài liệu nghiên cứu đối với các nền kinh tế phát triển và mới nổi.Điều này sẽ chứng minh
rằng sự đa dạng của kết quả, thường là với các quốc gia giống nhau, có thể do bằng
chứng thực nghiệm trích từ các thời điểm khác nhau và các phương pháp khác nhau.Các
nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã nhận được nhiều sự quan tâm nhất trong lĩnh vực
nghiên cứu này.
STT Tác giả Năm Phương pháp Kết luận
1 Rose và Yellen 1989 Sử dụng dữ liệu tách biệt
(disaggregated) về thương
mại song phương trong
trường hợp dữ liệu của Mỹ
giai đoạn 1960 đến 1985.
-Không tìm thấy đặc điểm nào hỗ
trợ cho hiệu ứng đường cong J
-Cũng không phải bằng chứng về
mối quan hệ dài hạn.
3
2 Bahmani
Oskooee và
Brooks
1999 Phân tích dữ liệu tách biệt về
thương mại song phương Hoa
Kỳ đối với 6 đối tác thương
mại lớn bằng cách sử dụng
các phương pháp tiếp cận
ARDL (phát triển bởi Pesaran
và Shin (1997) và Pesaran,
Shin và Smith (1996))
-Đã tìm thấy bằng chứng của hiệu
ứng đường cong J.
- Tuy nhiên họ đã làm báo cáo
vềmối quan hệ dài hạn đáng kể
giữa cán cân thương mại và tỷ giá
hối đoái, chỉ ra rằng sự giảm giá
thực của đồng đô la Mỹ có ảnh
hưởng thuận lợi tới cán cân
thương mại của Mỹ.
3 Shirvani và
Wilbratte
1997 Sử dụng một phương pháp
tiếp cận VECM cho Hoa Kỳ
với các nước G7.
Họ tìm thấy bằng chứng của một
hiệu ứng đường cong L đảo
ngược.
4 Demirden và
Pastine
1995 Sử dụng phương pháp VAR
của Sim.
Chứng minh trong ví dụ thực
nghiệm đơn giản rằng: hiệu ứng
phản hồi ( feedback effects) trong
môi trường tỷ giá hối đoái linh
hoạt có thể là đáng kể - kết quả
của hiệu ứng đường cong J.
5 Felmingham 1988 Kiểm tra các mệnh đề của
đường cong J bằng cách sắp
đặt một độ trễ phân phối
không giới hạn (A
unrestricted distributed lag)
với dữ liệu của Úc cho giai
đoạn 1965-1985.
Ông cũng không thể tìm thấy
bằng chứng về hiện tượng đường
cong J
6 Marwah và
Klein
1996 Sử dụng dữ liệu tách biệt
trong một hồi quy IV và OLS
Tìm thấy bằng chứng của một
đường cong S cho cả Canada và
4
cho giai đoạn 1977 đến 1992.
Hoa Kỳ. Theo kết quả của họ, cán
cân thương mại lúc đầu giảm khi
phá giá, sau đó là một sự cải thiện
cán cân thương mại - hiệu ứng
điển hình của đường cong J. Tuy
nhiên, sau một vài quý có vẻ có
xu hướng cán cân thương mại xấu
đi. Phát hiện gợi nhớ các phản
ứng hình chữ S của cán cân
thương mại với những thay đổi về
thương mại được đề cập trong
Backus, Kehoe và Kydland
(1994).
7 Bahmani-
Oskooee và
ALSE
1994 Thử nghiệm ở 41 nước phát
triển và kém phát triển về sự
tồn tại của đồng liên kết
(cointegration )và hiệu ứng
đường cong J áp dụng thủ tục
hai bước Engle-Granger.
Kết quả cho thấy cán cân thương
mại và tỷ giá hối đoái thực là
đồng liên kết chỉ có 14 quốc gia.
Trong các nước tham gia đồng
lien kết, có một số bằng chứng
của hiệu ứng đường cong J.
8 Gupta-Kapoor
và
Ramakrishnan
1999 Phân tích tác động của sự tăng
giá đồng yên trên dữ liệu cán
cân thương mại Nhật Bản đối
với bảy đối tác thương mại
lớn, sử dụng VECM.
Hàm phản ứng thúc đẩy ước
tính(the estimate impulse
response function) đã chỉ ra sự
tồn tại của một đường cong J ở
Nhật Bản.
9 Jung và
Doroodian
1998 Họ đã áp dụng mô hình độ trễ
Shiller với sự khác biệt đầu
tiên để tìm kiếm đặc điểm hỗ
trợ cho hiệu ứng đường cong
Kết quả tương tự như trên cho
Nhật Bản.
Bằng chứng dường như cho thấy
rằng đường cong J là một hiện
5
J.
tượng thực nghiệm, tức là nó có
thể hoặc không thể được tìm thấy
trong một quốc gia nhất định.
10 Baharumshah 2001 Sử dụng mô hình VAR không
giới hạn cho các cán cân
thương mại song phương của
Thái Lan và Malaysia với
Hoa Kỳ và Nhật Bản cho giai
đoạn 1980 đến 1996.
Ông tìm thấy mối quan hệ dài hạn
ổn định và tích cực giữa cán cân
thương mại và tỷ giá hối đoái.
Bằng chứng về phản ứng ngắn
hạn của cán cân thương mại hỗ
trợ hiệu ứng đường cong J là pha
trộn. Một đường cong J trì hoãn
có vẻ để áp dụng cho dữ liệu của
Thái Lan trong khi không có hỗ
trợ nào cho đường cong J được
tìm thấy trong dữ liệucủa
Malaysia.
11
Bahmani
Oskooee và
Kantipong
2001 Thử nghiệm đường cong J
trên các dữ liệu tách biệt giữa
Thái Lan và các đối tác
thương mại lớn như Đức,
Nhật Bản, Singapore, Anh, và
Hoa Kỳ cho giai đoạn 1973
đến 1997.
Họ chỉ tìm thấy bằng chứng của
đường cong J trong thương mại
song phương với Mỹ và Nhật Bản
12
Upadhyaya và
Dhakal
1997 Kiểm tra hiệu quả của phá giá
lên cán cân thương mại ở 8
nước phát triển (Colombia,
Cyprus, Hy Lạp, Guatemala,
Phát hiện thực nghiệm của họ là
mâu thuẫn với những phát hiện
của Baharumshah vềThái Lan.
Họ cung cấp bằng chứng dường
6
Mexico, Morocco, Singapore
và Thái Lan) áp dụng các
phương pháp được đề xuất
bởi Wickens và Breusch
(1988).
như cho thấy rằng chỉ trong
trường hợp phá giá của Mexico là
cải thiện cán cân thương mại
trong dài hạn.
13 Bahmani
Oskooee
2001 Điều tra phản ứng lâu dài của
cán cân thương mại các quốc
gia Trung Đông với việc phá
giá bằng cách áp dụng
phương pháp Engle-Granger
và đồng liên kết Johansen-
Juselius.
Bằng chứng cho thấy rằng có tồn
tại một ảnh hưởng dài hạn tích
cực của sự phá giá thực lên cán
cân thương mại cho bảy quốc gia
(Bahrain, Ai Cập, Jordan,
Morocco, Syria, Tunisia và Thổ
Nhĩ Kỳ). Trong trường hợp của
Morocco, điều này đối lập với các
kết quả thu được bởi Upadhyaya
và Dhakal.
14 Wilson 2001 Kiểm tra mối quan hệ giữa
cán cân thương mại thực và tỷ
giá hối đoái thực cho thương
mại hàng hóa song phương
giữa Singapore, Hàn Quốc và
Malaysia đối với Hoa Kỳ và
Nhật Bản.
Không có bằng chứng của hiệu
ứng đường cong J được tìm thấy
ngoại trừ thương mại giữa Hàn
Quốc với Hoa Kỳ.
15 Akbostanci 2002 Sử dụng hàm phản ứng đẩy
tổng quát(the generalized
impulse response function).
- Tìm thấy sự hỗ trợ cho mối
quan hệ dài hạn tích cực giữa tỷ
giá hối đoái và cán cân thương
mại.
- Trong ngắn hạn cán cân thương
7
Cho đến đây, các ưu thế của bằng chứng cho thấy rằng Hoa Kỳ không thể hiện
rằng sự co giãn nhập khẩu và xuất khẩu ngắn hạn dẫn đến một hiệu ứng đường cong J.
Hỗ trợ cho mối quan hệ dài hạn ổn định giữa cán cân thương mại Mỹ và các yếu tố của
nó được trộn lẫn. Mặt khác, Nhật Bản là một ví dụ về sự co giãn thương mại dẫn tới hện
mại phản ứng với phá giá theo
hình chữ S.
Quan điểm này liên quan với mối
quan hệ tích cực dài hạn được
đưa ra bởi Bahmani Oskooee
(2001). Tuy nhiên Kale (2001)
thu được kết quả mâu thuẫn, cung
cấp bằng chứng về tác động dài
hạn tiêu cực của phá giá trên cán
cân thương mại. Trong ngắn hạn
Kale tìm thấy bằng chứng của
một hiệu ứng đường cong J trễ (a
delayed J-curve effect).
16
Hacker và
Hatemi
2002 Nghiên cứu trong các nước
CEEC, đã xem xét dữ liệu
song phương tách biệt giữa
Cộng hòa Séc, Hungary và Ba
Lan đối với Đức.
- Họ phát hiện ra bằng chứng của
một mối quan hệ dài hạn tích cực
giữa cán cân thương mại và tỷ giá
hối đoái cho cả ba nước.
- Cộng hòa Séc và Ba Lan dường
như có đặc điểm dẫn đến hiệu
ứng đường cong J. Điều này
không đúng trong trường hợp của
Hungary.
8
tượng đường cong J.Tiếp theo là những nghiên cứu liên quan đến các nước kém phát
triển, chủ yếu mới nổi ở thị trường châu Á.
Nhìn chung, bằng chứng cho thấy rằng đường cong J không phải là một quy luật
thực nghiệm. Với một số quốc gia, hiệu ứng đường cong J được áp dụng chủ yếu, một số
nước khác không có. Các bằng chứng hỗ trợ sự tồn tại của một mối quan hệ dài hạn ổn
định tích cực giữa cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái (trừ một vài ngoại lệ) đáng chú ý
nhất là Hoa Kỳ.
C/.Tìm hiểucụ thể hơn các nghiên cứu gần đây đối với một số nước.
I.Malaysia
Bài nghiên cứu: của Ng Yuen-Ling, Har Wai-Mun, Tan Geoi-Mei vào năm 2008
tại Malaysia. “Real Exchange Rate and Trade Balance Relationship: An Empirical Study
on Malaysia”
Mô hình cán cân thương mại trong bài báo này tuân theo phương trình tương tự
được lựa chọn từ Shirvani và Wilbratte (1997),Baharumshah (2001), Gomez và Alvarez-
Ude (2006), trong đó nhấn mạnh tỷ giá hối đoái trong bằng chứng từ các quan hệ thương
mại song phương.
NX = NX (Y,Y*,ε ), cán cân thương mại là một hàm theo các biến: thu nhập trong
nước y, thu nhập nước ngoài Y* và tỷ giá hối đoái ε. Hàm đó có dạng như sau:
lnTBt = β0 + β1 lnYt + B2 ln Y*t + B3 ln RERt +ut
Tỷ giá hối đoái thực, RERt, thể hiện tỉ lệ Ringgit Malaysia (RM) so với đồng
Dollar Mỹ (USD) và Y * t diễn tả như tổng sản phẩm quốc nội của Hoa Kỳ.
Các dữ liệu hàng năm được sử dụng trong mô hình này từ năm 1955đến 2006 thu
được từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF). Trong thời gian đó, Malaysiacó một số thay đổi đáng
kể trong tỷ giá hối đoái thực vàsự mất cân bằng thương mại. Do đó điều này cung cấp
9
mộtđiềukiệnnghiêncứuthuận lợi đểxem xét liệunhững thay đổi trongtỷ giá hối đoái
cóthực sựảnh hưởng đếnkhối lượngthương mại.
Thử nghiệmJohansen-Juselius đượcsử dụng đểdiễn tả các kiểm tra lý thuyết về số
lượng cácmốiquanhệlâu dàitồn tại trongphương trình. Kết quả cho dấu dương β3củatỷ
giá hối đoái(RER) thể hiện cho việcgiảmgiátiền tệtạo ramột sự cải thiệntrongcán cân
thương mạitrong dài hạn.
Thử nghiệm của Augmented Dickey-Fuller (ADF) vàthử nghiệm của Philips-
Perron (PP)chothấyrằnglnRERđược tích hợpở bậc 1
Thử nghiệm Kwiatkowski-Philips-Schmidt-Shin (KPSS) cũng cho thấy ln
RERđược tích hợpở bậc 1
Phương pháp Engle-Granger cho kết quả là cómối quan hệtuyến tính giữalnTB
vớilnRER, YlnvàlnY*.
việcgiảmgiátiền tệtạo ramột sự cải thiệntrongcán cân thương mạitrong dài hạn.
Để kiểm trasự tồn tại củahiệuứngđường congJởMalaysia, tiến hànhkiểm traphản
ứng củacán cân thương mạivớiđổi mới trong tỷ giáhối đoái thực.Hiệu ứng đường cong J
có nghĩalàsự giảm giá nội tệ sẽlàm trầm trọng thêmcán cân thương mạitrong ngắn hạn
vàsau đó cónhững cải tiến sau một thời gian.
10
Từ hình 1, chúng ta thấy rằng cán cân thương mại tăng một cách nhanh chóng để
đáp ứng sự đổi mới do nội tệ giảm giá trong hai năm tiếp theo. Sau đó, cán cân thương
mại đã được cải thiện từ từ xuống từ năm 2 đến năm 7.Và sau đó, tình trạng này đã tiếp
tục có hiệu lực vĩnh viễn. Từ hình 1, tác động không theo các mô hình J-đường cong cổ
điển.
II.Các nước có hiệu ứng đường cong J.
1. Lý thuyết.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân thương mại bị xấu đi
trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống
hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng
đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 –1987, thì ban
đầu cán cân thương mại xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải
thiện.
Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính
trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài hạn,
hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải
thiện.
2.Phân tích một số trường hợp cụ thể.
11
2.1/ Một số nước Đông Nam Á.
Bài nghiên cứu: Tỉ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Đông Á: có tồn tại
đường cong J? (2003) (Exchange rate and trade balance in east asia: is there a
J−curve?)
Tác giả: Olugbenga Onafowora, Trường Đại học Susquehanna, Economics
Bulletin, vol.5,No.18, pp 1-13
a/Mục đích nghiên cứu:Nhiều phân tích thực nghiệm cho thấy rằng, cả những mô
hình hồi qui và mô hình kinh tế đều được áp dụng cho từng quốc gia riêng biệt, được tiến
hành để xem làm thế nào tỉ giá hối đoái có thể tác động đến cán cân thương mại và sự
phát triển của quốc gia. Mặc dù có nhiều nghiên cứu lí thuyết và thực nghiệm về việc
thay đổi tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng thế nào đến cán cân thương mại, vẫn còn có bất
đồng liên quan đến các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và hiệu quả của việc phá giá
đồng tiền như một công cụ để tăng sự cân bằng thương mại của một quốc gia.
Do đó, tác động củathay đổitỷ giá hối đoáitrêncán cân thương mạiphải được xem
xétmột câu hỏi mởtừcả hai quan điểmphântíchvà thực nghiệm.
Một sự sụt giảm trong tỉ giá hối đoái được thấy ở phần lớn các nước Đông Á từ
giữa những năm 1990, cung cấp 1 cơ hội để trả lời câu hởi có hay không phá giá đồng
tiền của mình có 1 tác động đáng kể đến dòng chảy thương mại, và có hay không xảy ra
các điều kiện của Marshall-Lerner (ML). Mục đích của bài báo này là để kiểm tra các
mối quan hệ giữa cán cân thương mại thực với tỉ giá hối đoái thực cho các nước ASEAN-
Thái Lan, Malasia và Indonesia trong thương mại song phương với Mỹ và Nhật Bản. Để
thực hiện điều này, bài viết này sử dụng công cụ phân tích đồng liên kết (cointegration-
phương pháp xác định mối liên hệ dài hạn giữa các biến chuỗi thời gian) và mô hình chữa
lỗi vector (VECM- xử lí tất cả các biến nội sinh trong mô hình) từ đó kiểm định những
ảnh hưởng của nhưng biến đổi và theo dõi hiệu ứng đường cong J tiềm năng trong các dữ
liệu.
12
b/ Diễn giải mô hình
Cán cân thương mại thường được đo là sự khác biệt giữa giá trị tổng kim ngạch
xuất khẩu và tổng lượng nhập khẩu.Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá cán cân
thương mại là tỷ lệ của giá trị xuất khẩu song phương (X) với giá trị nhập khẩu song
phương (M).Tỷ lệ X / M hoặc nghịch đảo của nó đã được sử dụng trong điều tra thực
nghiệm về mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tỉ giá hối đoái.Một lý do cho việc sử
dụng nó là tỷ lệ này là không nhạy cảm với các đơn vị đo lường và có thể được hiểu là
cán cân thương mại danh nghĩa hoặc thực (Bahmani Oskooee, năm 1991). Hơn nữa, theo
ghi nhận của Boyd et al.(2001), tỷ lệ trong một mô hình logarit cung cấp cho các điều
kiện Marshall-Lerner chính xác hơn.
Chúng tôi xác định cán cân thương mại song phương thực sự là một hàm số của
thu nhập trong nước, thu nhập của nước ngoài, tỷ lệ trao đổi song phương, và một biến
giả (0,1) để nắm bắt sự thay đổi trong quan hệ thương mại song phương kết quả từ cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Hình thức giản lược của phương trình được đưa
ra như sau:
lnX/Mt α0 α1 ln Yt α 2 ln Yt * α3 ln RER t α4D97t
Chú thích:
ln là logarit tự nhiên
Yt là thu nhập trong nước thực sự
Yt * là thu nhập của nước ngoài
RERt là tỷ giá hối đoái song phương thực tế
D97 là một biến giả mà mất giá trị của số không trong khoảng thời gian trước năm
1997
Åt: là một thuật ngữ lỗi
RERt được định nghĩa là RERt = (EP * / P), E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu
quả, và P là mức giá trong nước và nước ngoài tương ứng.
13
(1) mô tả mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình cán cân
thương mại song phương thực cho mỗi quốc gia.
c/.Kết quả thực nghiệm
Trong tất cả trường hợp, kết quả cho thấy một mối quan hệ tích cực trong dài hạn
giữa giữa tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại thương mại thực, như sẽ được dự
kiến nếu sự mất giá thực dẫn đến số lượng xuất khẩu nhiều hơn và số lượng nhập khẩuít
hơn. Kết quả cho Indonesia-Nhật Bản, Indonesia, Mỹ, và Malaysia Mỹ chỉ ra rằng cán
cân thương mại thực có một mối quan hệ dài hạn tiêu cực với thu nhập thực tế trong nước
và một mối quan hệ tích cực với thu nhập dài hạncủa nước ngoài. Những dấu hiệu này là
những gì chúng ta mong đợi nếu nhu cầu là động lực trong việc xác định hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu. Trong các mô hình Thái Lan-Nhật Bản, Thái Lan-Mỹ, và Malaysia,
Nhật Bản, cán cân thương mại thực có một mối quan hệ tích cực với thu nhập thực trong
nước và một mối quan hệ tiêu cực lâu dài với thu nhật nước ngoài thực. Những dấu hiệu
này là những gì chúng ta mong đợi nếu một gia tăng trong thu nhập thực tế là do tăng
năng suất sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và cung cấp động lực trong xác định xuất
khẩu và nhập khẩu.
Trong hình 1 và 2, hiệu ứng đường cong Jcho quan sát ở Indonesia trong thương
mại song phương với Nhật Bản và Mỹ. Sau khi phá giá nội tệ, Indonesia cho thấy sự
thâm hụt ban đầu của cán cân thương mại nhưng sau đó là một sự cải thiện lâu dài.Các
hình còn lại cho thấy kết quả tương tự ở Indonesia.
Các mô hình trước đó cho thấy sau khi một sự phá giá có một xu hướng cho cán
cân thương mại đầu tiên xấu đi và sau để cải thiện, nhưng sau một vài quý, cán cân
thương mại xấu đi một lần nữa.
14
d/ Kết luận:
Mục tiêu của bài báo nàyđãđượckiểmtrangắn hạnvàảnh hưởnglâu dàicủatỉ giá hối
đoáithựctếvềcán cân thương mạithực sự chocác nước ASEAN-TháiLan, Malaysia,
vàIndonesiatrong thương mạisongphươngvớiMỹvà Nhật Bảnvà xem xét sự tồn tại của
15
các điều kiện ML. Trong mọi trường hợp, phân tích đồng liên kết chỉ ra rằng có một mối
quan hệ lâu dài giữa các trạng thái ổn định giữa cán cân thương mại, tỉ giá hối đoái thực,
thu nhập trong nước và thu nhập nước ngoài. Và các mô hình khá ổn định trong giai đoạn
phân tích.
Đối vớiIndonesiavàMalaysiatrong thương mạisong phươngMỹ vàNhật Bản,vàThái
Lantrong thương mạisong phươngvớiMỹ, những phát hiện củachúngtôichothấyrằng có
nhữnghiệu ứngđường congJ-ngắn hạn. Việc sụt giá nội tệ cho thấy 1 sự xấu đi trong cán
cân thương mại kéo dài khoảng ¼ giai đoạn, nhưng điều này được theo sau bởi một sự
cải tiến trong thời gian dài. Thái Lan có phongtràođốidiệntrong thương
mạisongphươngvớiNhật Bản: mộtbiến động tỷ giáhối đoái thực làmgiảm giánội tệ ban
đầuđược cải thiệnsau đótrở nên tồi tệ hơnvà sau đócải thiệncán cân thương mại.
Mô hình này không hỗ trợgiả thuyếtđường congJ-cổ điển, nhưnglàphùhợpvới các
mô hìnhS-đường cong mô tảBackus(1994) vàMarwahvàKlein(1996).
Nhìn chung, kết quả phân tích cho thấy điều kiện của ML tồn tại trong thời gian
dài với các mức độ khác nhau của hiệu ứng đường cong J trong ngắn hạn. Những phát
hiệncómộtsốtác động đối vớicác quốc giaĐông Átrong thương mại song phươngvới Nhật
BảnvàMỹ.Căn cứ vào điều kiện ML, việc tiếp tục mất giá tiền tệ của cácnướcĐông Áso
với đồng USDvà đồng yênNhậtBảncó thể sẽdẫn đếnsự cải thiện trongcán cân thương
mạicủahọvới Mỹ vàNhậtBản.Tuy nhiên,sự cải tiến nàyxảy rachỉcó3 hoặc4 giai
đoạnsaukhimột sự phá giáthựcsự.
2.2.Crotia
Bài nghiên cứu:“Ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái thực lên cán cân
thương mại ở Croatia”(The Effects of Exchange Rate Change on the Trade Balance in
Croatia).IMF Working Paper, April 2004.
Tác giả:Tihomir Stucka
Authorized for distribution by Jeroen J. Kremers
16
Tihomir Stucka là Cố vấn Giám đốc điều hành của IMF ở Armenia, Bosnia và
Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Georgia, Israel, Cộng hòa Nam Tư cũ của
Macedonia, Moldova, Vương quốc Hà Lan, Romania và Ukraine.
Bài viết này đã được công bố trước đó là Working Paper No. W-l1 (10/2003) ở
Ngân hàng quốc gia Croatia.
a/ Mục đích nghiên cứu.
Thành phần chính của sự thâm hụt tài khoản vãng lai đáng kể ở Croatia là thâm
hụt thương mại hàng hóa do tình trạng trì trệ xuất khẩu và gia tăng nhập khẩu trong ba
năm qua. Để cải thiện cán cân thương m