Tiểu luận Bài lạm phát tại Việt Nam từ năm 2008 đến nay

Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế,các quốc gia đều đã từng đối mặt với lạm phát,nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực,trong nền kinh tế thị trường nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.Lạ m phát ở Việt Nam trong lịch sử đã kéo dài nhiều năm và bùng nổ thành siêu lạm phát trong năm 1986-1988 với chỉ số tăng giá hàng tháng ở mức cao phổ biến từ 15-20%.Tuy nhiên cũng chỉ sau khi ”con bệnh" lạm phát bùng nổ thành siêu lạm phát với những hệ quả cực kì tai hại về kinh tế và xã hội trong những năm nữa sau của thế kỉ 80 thì chính sách chống lạm phát,kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,tiến tới kiểm soát lạm phát mới thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng chiến lược tại Việt Nam.Nước ta sau 12 năm kiềm chế được lạm phát (1995-2007) ở mức một con số,trong thời gian này chúng ta đã kiểm soát được lạm phát.Nhưng từ tháng 12 năm 2007,do tình hình phát triển của hội nhập kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới,chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức hai con số,trong 8 tháng đầu năm 2008,tình hình diễn biến hết sức căng thẳng.Chính phủ đã kịp thời đưa ra 8 biện pháp cả gói để kiềm chế lạm phát.Vì thế có thể nói tình hình đã có phần dịu đi nhưng nền kinh tế vẫn chưa ổn định,giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát.Diễn biến của tình hình lạm phát Việt Nam vẫn hết sức phức tạp cho đến nay.

pdf25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2379 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bài lạm phát tại Việt Nam từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG  BÀI TIỂU LUẬN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN THỊ HAI HẰNG Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ HỒNG Lớp: K09404A MSSV: K094040550 0 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 2 I. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT ............................................................................................ 3 1. Định nghĩa về lạm phát ....................................................................................................... 3 2. Các phương pháp đo lường lạm phát ................................................................................... 3 3. Nguyên nhân lạm phát ......................................................................................................... 5 a) Lạm phát do cầu kéo .......................................................................................................... 5 b) Lạm phát do cầu thay đổi ................................................................................................... 5 c) Lạm phát do chi phí đẩy ..................................................................................................... 5 d) Lạm phát do cơ cấu ............................................................................................................ 6 e) Lạm phát do xuất khẩu ....................................................................................................... 7 f) Lạm phát do nhập khẩu....................................................................................................... 7 g) Lạm phát đẻ ra lạm phát ..................................................................................................... 7 4. Tác động của lạm phát ........................................................................................................ 7 a) Đối với lĩnh vực sản xuất ................................................................................................... 7 b) Đối với lĩnh vực lưu thông ................................................................................................. 8 c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ........................................................................................ 8 II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT VIỆT NAM NĂM 2008 ĐẾN NAY ........................................... 9 1. Năm 2008 ........................................................................................................................... 9 2. Năm 2009 ......................................................................................................................... 14 3. Năm 2010 ......................................................................................................................... 15 4. Năm 2011 ......................................................................................................................... 16 5. Năm 2012 ......................................................................................................................... 18 III. NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ............................................................. 21 IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM .......................................... 22 1 LỜI MỞ ĐẦU Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế,các quốc gia đều đã từng đối mặt với lạm phát,nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực,trong nền kinh tế thị trường nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.Lạm phát ở Việt Nam trong lịch sử đã kéo dài nhiều năm và bùng nổ thành siêu lạm phát trong năm 1986-1988 với chỉ số tăng giá hàng tháng ở mức cao phổ biến từ 15-20%.Tuy nhiên cũng chỉ sau khi ”con bệnh" lạm phát bùng nổ thành siêu lạm phát với những hệ quả cực kì tai hại về kinh tế và xã hội trong những năm nữa sau của thế kỉ 80 thì chính sách chống lạm phát,kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,tiến tới kiểm soát lạm phát mới thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng chiến lược tại Việt Nam..Nước ta sau 12 năm kiềm chế được lạm phát (1995-2007) ở mức một con số,trong thời gian này chúng ta đã kiểm soát được lạm phát.Nhưng từ tháng 12 năm 2007,do tình hình phát triển của hội nhập kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới,chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức hai con số,trong 8 tháng đầu năm 2008,tình hình diễn biến hết sức căng thẳng.Chính phủ đã kịp thời đưa ra 8 biện pháp cả gói để kiềm chế lạm phát.Vì thế có thể nói tình hình đã có phần dịu đi nhưng nền kinh tế vẫn chưa ổn định,giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát.Diễn biến của tình hình lạm phát Việt Nam vẫn hết sức phức tạp cho đến nay. 2 I. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm về lạm phát Quan điểm phổ thông cho rằng: lạm phát là hiện tượng tăng lên của giá chung tại một thời điểm. Chúng ta có thể hiểu theo quan điểm này thì giá tăng là lạm phát, tất nhiên là không hẳn như vậy. Chúng ta thử nghĩ xem vào dịp tết tất cả các mặt hàng hầu nhu đều tăng giá, phải chăng đó là lạm phát? Không!đó chỉ là biến động cung cầu tạm thời, hay nói cách khác nếu giá tăng trong thời gian ngắn thì không phải cứ coi là lạm phát, chúng ta không nên cường điệu hóa. Nhà kinh tế học Milton Fridmen đã định nghĩa: lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và kéo dài liên tục trong một thời gian dài. Như vậy với việc hình thành lamj phát theo quan điểm này, bản chất lạm phát được thể hiện ở tính chất tăng giá, với một tốc độ cao và trong thời gian dài., đó là đặc thù riêng của lạm phát. Định nghĩa này cũng được Keynes ủng hộ,phù hợp với mục tiêu ổn định giá cả trong thời gian dài của các NHTW. 2. Các phương pháp đo lường lạm phát a) Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát. CPI đo lường mức giá trung bình của một nhóm hàng hóa và dịch vụ dành cho tiêu dùng của các hộ gia đình trong một giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hàng hóa đã được chọn theo quy định: CPI = Trong đó: : là giá hàng hóa i năm gốc. : là sản lượng hàng hóa I năm gốc. : là giá hàng hóa i năm t. 3 Tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính theo công thức: Tỷ lệ lạm phát=  Ưu điểm: cho phép so sánh sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng theo thời gian  Nhược điểm: không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng, đồng thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hóa dịch vụ. Ở Việt Nam, CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ. b) Chỉ số lạm phát cơ bản Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số mặt hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng. Hiện nay trên thế giới có phương pháp đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm cơ bản: Nhóm phương pháp cơ học: việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện bằng cách loại bỏ một số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hóa đặc trưng bởi những cú sốc mạnh (có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không được hình thành bởi thị trường). Nhóm phương pháp thống kê: loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của giá cả ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đỏi theo từng tháng và phụ thuộc vào độ biến dộng của giá cả của hàng hóa đó. Các phương pháp thống kê phổ biến nhất bao gồm phương pháp bình quân thu gọn và phương pháp bình quân gia quyền cộng dồn. Phương pháp hồi quy: sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa ra các số liệu thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản. 4 3. Nguyên nhân của lạm phát. a) Lạm phát do cầu kéo. Kinh tế học Keynes cho rằng tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.Trong khi đó,chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn,dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Loại lạm phát này xuất phát từ sự thay đổi hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế.Các nguyên nhân có thể là do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng, hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia đình quá lạc quan, hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng đột biến. b) Lạm phát do cầu thay đổi. Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới( chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. c) Lạm phát do chi phí đẩy. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên , thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng giá bán sản phẩm vì những lý do bất lợi. Loại lạm phát chủ yếu đến từ phía cung và nguyên nhân chủ yếu xuất phát 5 từ hiện tượng tăng chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp. Tăng chi phí không mong đợi từ các doanh nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi. Công nhân đình công đòi tăng lương ở diện rộng, giá nguyên liệu tăng đột biến, thảm họa tự nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là những ngòi nổ của loại lạm phát này. Lạm phát chi phí đầy không thể xuất hiện trong nền kinh tế có thị trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện tượng lạm phát loại này có thể bắt nguồn từ nguyên nhân không thuộc nền kinh tế. Có các dạng lạm phát chi phí đẩy sau: - Lạm phát do tiền lương đẩy: các nghiệp đoàn đòi tăng lương cho người lao động không hề liên quan tới nhu cầu thực tế về lao động. - Lạm phát do lợi nhuận đẩy: loại lạm phát này gây nên do các công ty độc quyền dùng “ sức mạnh” độc quyền để tăng lợi nhuận khi đặt giá bán sản phẩm của họ cao hơn giá do thị trường hàng hóa quyết định. Trường hợp này đã xảy ra ở nước ta với giá xi măng do hiệp hội Xi măng quy đinh vào năm 1995. - Lạm phát do giá hàng nhập khẩu đẩy: giá hàng nhập khẩu tăng hoàn toàn độc lập với nhu cầu của nền kinh tế, thí dụ các nước OPEC tăng giá dầu lên gấp bốn lần vào cuối năm 1973 kéo dài sang năm 1974 gây lạm phát của một loạt nước nhập khẩu dầu mỏ. - Lạm phát di thuế đẩy: tăng thuế làm cho giá sinh hoạt tăng, chẳng hạn khi thuế giá trị gia tăng tăng từ làm cho mức giá chung của nền kinh tế tăng. - Lạm phát do nguồn tài nguyên cạn kiệt: khi nguồn tài nguyên chủ yếu của nền kinh tế bị cạn kiệt( dầu mỏ) làm cho giá năng lượng tăng; hay môi trường nước bị ô nhiễm làm cho sản phẩm nghành thủy sản tăng. Giá của từng ngành này sẽ ảnh hưởng tới mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế. d) Lạm phát do cơ cấu. Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động 6 trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm.Lạm phát nảy sinh vì điều đó. e) Lạm phát do xuất khẩu. Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng có hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung mất cân bằng. f) Lạm phát do nhập khẩu. Sản phẩm không tự sản xuất mà phải nhập khẩu. khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng lên. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. g) Lạm phát đẻ ra lạm phát. Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự định duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát. Đây là trường hợp dính của Việt Nam và vô cùng nguy hiểm. 4. Tác động của lạm phát : Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế lạm phát là một nỗi lo của toàn xă hội và ta cũng thấy được các tác động của nó. a) Tác động đến lĩnh vực sản xuất : Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá tŕnh sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh .Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về 7 kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp, không gây ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng . b) Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá tŕnh đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của ḿnh để vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn. Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. c) Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lăi suất tiền gưỉ không làm an tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn ,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy tŕ mứclăi suất ổn định. Mà lăi 8 suất thực = lăi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lăi suất thực ổn định thì lăi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát . Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không c̣òn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới h́nh thức tiền mặt. II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY 1. Năm 2008 Năm 2008 với quá nhiều con số, dữ liệu khó lường liên quan đến lạm phát đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt quan trọng: chiến thắng vào những tháng gần cuối năm, nỗi ám ảnh của một cơn “đại hồng thuỷ” về lạm phát đã không xẩy ra. Trái lại, có thể đã có một chút quá “liều kháng sinh” nên xu hướng giảm phát đã xuất hiện ngay sau khi chặn được lạm phát từ tháng 9, nhưng khống chế và kiểm soát được lạm phát vẫn là nét chủ đạo của thành công kiểm soát giá cả năm 2008. CPI năm này đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%. BIỂU ĐỒ CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI) NĂM 2008 9 Đến hết tháng 6/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 18,44% so với 31/12/2007 và 24,8% so cùng kỳ năm trước - mức cao nhất trong 15 năm kể từ 1993 (diễn biến lạm phát 6 tháng lần lượt là: T1: 2,38%; T2: 3,56%; T3: 2,99%; T4: 2,2%; T5: 3,91%; T6: 2,14%=>6 tháng: 18,44%).  Tiền trong lưu thông cùng với các hình thức quay vòng của nó, được phân tích và chỉ rõ nằm ở thị trường bất động sản (BĐS) rộng lớn nhưng bị “đóng băng” ở giá cao, ở thị trường vàng (giá cao hơn thế giới đến trên 10%), Ở thị trường ngoại tệ (chủ yếu là đồng USD, vì USD lên giá rất mạnh so với VND ngay cả khi chính đồng USD lúc đó đang bị mất giá mạnh so với các đồng tiền thông dụng quốc tế khác: đến tuần đầu tháng 6/2008 thì 1 USD chỉ còn ăn 0,6345 Euro, giảm 11% so tháng 9/2007; 0,5041 Bảng Anh, giảm 10%; 1,0135 Đô la úc, giảm 9%; 0,9552 Đô la Canada, giảm 13% (lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ thế giới, đồng USD thấp giá trị chuyển đổi hơn so với đồng Đô la Canada!); 103,8 Yên Nhật, giảm 8%; 7,8025 Đô la Hồng Kông, giảm 4%; 1,3145 Đô la Singgapore, giảm 11%; 26,96 Bath Thái Lan, giảm 5%; 6,9475 Nhân dân tệ Trung quốc, giảm 9%... Trong khi tại Việt Nam, đồng USD sau khi mất giá mạnh so với VND vào quí I/2008, có lúc tỷ giá tụt xuống 15.300đ/USD, lại lên giá tới 9,38%: 16000đ/USD tháng 10/2007 so với hơn 17.500đ/USD cuối tháng 6/2008), một bộ phận tiền khác nằm ở khu vực đầu cơ vào một số hàng hoá vật tư chiến lược như sắt, xi măng, xăng, dầu, phân bón... góp phần gây nên tình trạng nhập siêu 4 tháng đầu năm lên tới 63%…Còn lại phần lớn tiền tệ tham gia vào CPI Lạm phát ở Việt Nam đến thời điểm cuối tháng 6/2008 ở mức cao nhất khu vực. Lạm phát với tốc độ cao vào thời điểm nửa đầu năm 2008 đã trở thành “điểm nóng” nhất và chống lạm phát đã được xác định là nhiệm vụ ưu tiên số một trong quản lý nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam. 10  Nhiều chuyên gia đã phân tích độ trễ về tác động của các nhân tố tiền tệ và các nhân tố nội tại của sản xuất trên thị trường Việt Nam và đã chỉ ra các nhân tố tác động đẩy lạm phát liên tục gia tăng với 3 nhóm nguyên nhân chính: i) Nhập khẩu lạm phát qua nhập siêu; mất cân đối cơ cấu đầu tư và kém hiệu quả - đặc biệt là khu vực đầu tư công và độ trễ của cơ chế nới lỏng tiền tệ ưu tiên tăng trưởng từ các năm trước. Đơn cử chỉ nhìn vào 2 con số: tốc độ tăng M2 tính dồn từ 2005 đến 2007 tăng 92% (trong đó năm 2005: tăng 23,34%; năm 2006: tăng 33,59% và năm 2007 tăng 35%), trong khi cũng 3 năm đó, GDP tăng tích luỹ khoảng 24,88% (2005: 8%; 2006:8,4% và 2007:8,48%). Như vậy, tốc độ tăng M2 trong 3 năm trước đã gấp 3,7 lần tốc độ tăng GDP là quá cao so với cũng con số này bình quân tại các nước trong khu vực thường không lớn hơn 1,5 lần. ii) Ở Việt Nam từ lâu đã song song tồn tại 3 nền kinh tế độc lập tương đối với nhau xét chủ yếu qua “cơ chế đầu vào” và một phần cơ chế sử dụng phương tiện thanh toán hoàn toàn khác nhau gồm: (i) Khu vực kinh tế công của Nhà nước; (ii) khu vực kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa và kinh tế hộ gia đình; (iii) khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, khu vực (i), ở đầu vào có rất nhiều nhân tố rẻ và độc quyền như: Giá quyền sử dụng đất, tiền công, khấu hao... rất rẻ nhưng năng suất lao động rất thấp, hàm lượng giá trị lao động cao và giá trị gia tăng rất nhỏ làm cho giá cả vẫn cao; khu vực
Luận văn liên quan