Tiểu luận Bài Tổ chức công tác kiểm toán

PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN PHẦN II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN THUẾ A.TAX PHẦN III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

doc37 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 4088 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bài Tổ chức công tác kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN 1. Khái quát về tổ chức công tác kiểm toán Tổ chức Là mối liên hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống .Mức độ liên hệ này được xác định qua biên độ giao động từ không đến một.Ở mức độ không, các yếu tố trong cùng một hệ thống không tồn tại bất kì mối liên hệ nào. Khi đó hệ thống rơi vào tình trạng tan rã hay vô tổ chức.Ở độ một, ngược lại ,các yếu tố quan hệ chặt chẽ,khoa học và hệ thống hoạt động ở mức độ tối ưu . Tổ chức kiểm toán Là khái niệm bao hàm trình tự kiểm toán .Một cuộc kiểm toán chỉ có thể thực hiện thành công nếu đối tượng kiểm toán được xác định thống nhất giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, trong đó chủ thể kiểm toán được xác định rõ mục tiêu và phạm vi kiểm toán và kết hợp khéo léo các phương pháp kĩ thuật theo trình tự kiểm toán trong khuôn khổ những cơ sở pháp lý nhất định để thực hiện cuộc kiểm toán, thoả mãn nhu cầu khách thể kiểm toán và các bên quan tâm.theo đó tổ chức kiểm toán là một vấn đề cơ bản,có ý nghĩa quyết định sự thành côngvà tính hiệu quả thực hiện một cuộc kiểm toán. Trình tự Là thứ tự diễn ra từ đầu đến cuối của một vấn đề đã được xắp xếp dự tính từ trứơc lúc xảy ra hiện tượng đó. Trình tự kiểm toán Là một quy trình chung với 3 bước cơ bản - Chuẩn bị kiểm toán -Thực hành kiểm toán - Kết thúc kiểm toán 2. Nội dung tổ chức công tác kiểm toán 2.1 Chuẩn bị kiểm toán 2.1.1 Lập kế hoạch Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng. 2.1.2 Quy trình kiểm toán Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ có giá trị làm căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số liệu trên Báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán. Sơ đồ 1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Giai đoạn I Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm Giai đoạn II Thực hiện kế hoạch kiểm toán Giai đoạn III Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán 2.1.3 Trình tự giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế phương án kiểm toán Để giúp cho việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán được thực hiện có hiệu quả, các giám đốc kiểm toán và các kiểm toán viên cao cấp thường lập chiến lược kiểm toán. 2.1.4 Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và Công ty kiểm toán thu nhận một khách hàng. Công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán, nhận diện các lý do kiểm toán, lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và ký hợp đồng kiểm toán. - Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán thông qua việc xem xét hệ thống kiểm soát và xem xét tính liêm chính của ban giám đốc khách hàng thông qua việc phỏng vấn các kiểm toán viên tiền nhiệm. Từ đó, xác định khả năng có thể kiểm toán được công ty khách hàng. - Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng, để thực hiện việc này kiểm toán viên có thể phỏng vấn trực tiếp ban giám đốc khách hàng hoặc dựa vào kinh nghiệp của những cuộc kiểm toán trước. - Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán: trong quá trình lựa chọn nhân viên kiểm toán phải chú trọng đến 3 vấn đề: + Trong nhóm hay trong đoàn kiểm toán phải có những người có khả năng giám sát cuộc kiểm toán. + Tránh thay đổi kiểm toán viên cho các cuộc kiểm toán đối với một khách hàng trong nhiều năm. + Lựa chọn những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm về nghành nghề kinh doanh của khách hàng. - Lập hợp đồng kiểm toán: khi chấp nhận kiểm toán thì công ty kiểm toán lập một hợp đồng kiểm toán để tránh bất đồng trong hoặc sau cuộc kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là thoả thuận chính thức giữa Công ty kiểm toán và khách hàng về việc kiểm toán và thực hiện các dịch vụ có liên quan khác. Về mặt pháp lý hợp đồng kiểm toán là hợp đồng kinh tế và bao gồm các nội dung chủ yếu sau: + Mục đích và phạm vi kiểm toán. + Trách nhiệm của ban giám đốc công ty khách hàng và công ty kiểm toán. + Hình thức thông báo kết quả kiểm toán. + thời gian tiến hành, kết thúc và phát hành báo cáo kiểm toán. + Căn cứ tính giá phí của cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán. + Chỉ rõ trách nhiệm của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán không liên quan tới những sai sót do bản chất của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của khách hàng. 2.1.5 Thu thập thông tin cơ sở - Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Cụ thể, mỗi ngành nghề có một hệ thống kế toán riêng và có những nguyên tắc đặc thù. Để tìm hiểm ngành nghề kinh doanh của công ty khách hàng có thể trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc trực tiếp trao đổi với nhân viên, ban giám đốc của khách hàng. Ngoài ra kiểm toán viên có thể có được những hiểu biết đó qua việc nghiên cứu các sách báo, tạp chí chuyên nghành, và ở Việt Nam kiểm toán viên có thể lấy các thông tin từ Niên giám thống kê do Tổng cục Thống kê phát hành hàng năm. - Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán thường xuyên. Các hồ sơ kiểm toán thường xuyên thường chứa đựng rất nhiều thông tin về khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểm hoạt động khác. Ngoài ra đa phần các công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên đối với mỗi khách hàng. Hồ sơ này có các bản sao của các tài liệu như: sơ đồ tổ chức bộ máy, điều lệ công ty, chính sách tài chính, kế toán… Qua đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật và xem xét các sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua đó kiểm toán viên không chỉ xác định được các quyết định của các nhà quản lý có phù hợp với pháp luật của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay không mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên các báo cáo tài chính được kiểm toán. - Tham quan nhà xưởng, kho bãi, trụ sở làm việc của công ty khách hàng. Công việc này cung cấp cho kiểm toán viên một bức tranh tổng thể về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khách hàng, về sản phẩm tồn kho, dây truyền công nghệ, cách phân công công tác, phong cách quản lý điều hành của ban giám đốc. - Nhận diện các bên hữu quan: phải được thực hiện ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thông qua phỏng vấn ban giám đốc, xem sổ theo dõi cổ đông, các bên tham gia góp vốn, hoặc sổ theo dõi khách hàng. Từ đó dự đoán các vấn đề có thể phát sinh để hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp hơn. - Dự kiến nhu cầu đối với các chuyên gia bên ngoài: kiểm toán viên phải đánh giá khả năng chuyên môn, mục đích, phạm vi công việc của họ, cũng như việc sử dụng tài liệu của các chuyên gia bên ngoài cho các mục tiêu kiểm toán.Ngoài ra, còn phải xem xét mối quan hệ giữa các chuyên gia bên ngoài với khách hàng hoặc các yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của chuyên gia đó. 2.1.6 Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp cho kiểm toán viên hiểu được về các mặt hoạt động kinh doanh của khách hàng thì việc thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp cho kiểm toán viên nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá trình tiếp xúc với Ban giám đốc khách hàng bao gồm các loại sau: - Giấy phép thành lập và điều lệ thành lập của công ty khách hàng. Việc nghiên cứu những giấy tờ này giúp cho kiểm toán viên hiểu được quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động và những lĩnh vực kinh doanh hợp pháp của đơn vị. - Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, biên bản thanh tra, kiểm tra của năm hiện hành hoặc một vài năm trước. Các báo cáo trên cung cấp về thực trạng tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và dự kiến về phương án kiểm tra thông qua các biên bản kiểm tra, thanh tra trước. - Biên bản họp của hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám đốc. Thông qua việc nghiên cứu các biên bản này kiểm toán viên sẽ xác định được những yếu tố ảnh hưởng tới thông tin trên báo cáo tài chính. - Các hợp đồng và cam kết quan trọng: Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán việc xem xét sơ bộ các hợp đồng đó giúp cho kiểm toán viên hình dung được những khía cạnh pháp lý có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị. 2.1.7 Thiết kế chương trình kiểm toán 2.1.7.1 Chương trình kiểm toán Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán viên cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của chương trình kiểm toán là các thủ tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng khoản mục hay bộ phận được kiểm toán. 2.1.7.2 Quy trình thiết kế chương trình kiểm toán Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán được thiết kế thành 3 phần: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm trực tiếp các số dư. Mỗi phần được chia nhỏ thành các chu kỳ nghiệp vụ và các khoản mục trên Báo các tài chính. 2.2 Thực hành kiểm toán 2.2.1 Khái quát quá trình thực hiện kế hoạch kiểm toán Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực các kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. 2.2.2 Thực hiện thủ tục kiểm soát Thủ tục kiểm soát chỉ được thực hiện sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ với đánh giá ban đầu là khách thể kiểm toán có hệ thống kiếm soát nội bộ hoạt động có hiệu lực. Khi đó, thủ tục kiểm soát được triển khai nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán về thiết kế và về hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ 2.2.3 Thực hiện thủ tục phân tich Các giai đoạn chủ yếu thực hiện thủ tục phân tích: - Phát triển một mô hình: kết hợp với các biến tài chính và hoạt động. Khi phát triển một mô hình, chúng ta xác định các biến tài chính hoặc hoạt động và mối quan hệ giữa chúng. chẳng hạn, chi phí về tiền lương có thể là sản phẩm của các biến số như: số lượng nhân viên và mức tiền lương bình quân hoặc số lượng sản phẩm và đơn giá tiền lương hoặc tỷ lệ tiền lương và tổng chi phí hay doanh thu…Khi kết hợp được những biến độc lập có liên quan, mô hình sẽ cho ta nhiều thông tin hơn và vì vậy dự đoán sẽ chính xác hơn. Ngược lại, nếu mô hình và dự đoán đơn giản hoá quá nhiều cũng đồng nghĩa với đơn giản hoá các phép so sánh và mức hạn của bằng chứng kiểm toán. Để có thể tăng tính chính xác cho các dự đoán bằng cách phát triển mô hình theo hướng chi tiết hoá dữ liệu, thậm chí chi tiết hoá thành nhiều mô hình nhỏ hơn. - Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ: tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ sử dụng trong mô hình có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chính xác của dự đoán và tới bằng chứng kiểm toán thu được từ thủ tục phân tích. - Ước tính giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ: dựa theo mô hình và trên cơ sở dữ liệu độc lập và tin cậy có thể so sánh ước tính này với giá trị ghi sổ. Phép so sánh này cần chú ý tới những xu hướng sau: + Tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được nghiên cứu. + Tính biến động tất yếu và biến động bất thường. - Phân tích nguyên nhân chênh lệch: chênh lệch phát sinh có thể do số dư tài khoản hay loại nghiệp vụ được kiểm toán chứa đựng sai sót nhưng có thể chênh lệch được hình thành từ chính ước tính trong phân tích. - Xem xét những phát hiện qua kiểm toán: bằng chứng kiểm toán thu nhận được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá do phát hiện qua kiểm toán không chỉ bao gồm những sai sót trong tài khoản mà cả những quan sát hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và những vấn đề khác. 2.2.4 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới chỉ thu thập được các thông tin mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một kế hoạch kiểm toán phù hợp. 2.2.4.1 Đánh giá mức trọng yếu Trọng yếu là khái niềm dùng để chỉ tầm cỡ và bản chất các sai phạm của các thông tin tài chính, hoặc đơn lẻ hoặc theo nhóm. - Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá mức trọng yếu để ước tính mức độ sai sót trên báo cáo tài chính có thể chấp nhận từ đó xác định nội dung và trình tự thực hiện các thử nghiệm kiểm toán. - Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra ước tính ban đầu về tính trọng yếu và phân bổ các ước tính ban đầu đó cho các khoản mục + Ước tính ban đầu về mức trọng yếu: mức ước tính ban đầu về tính trọng yếu là giá trị tối đa mà kiểm toán viên tin rằng tại giá trị tối đa đó các báo cáo tài chính có thể bị sai nhưng không ảnh hưởng đến các quyết định của những người sử dụng thông tin tài chính, hay nói cách khác là mức sai sót có thể chấp nhận được đối với báo cáo tài chính. Ý nghĩa: việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm toán viên lập kế hoạch để thu thập bằng chứng kiểm toán một cách đầy đủ và thích hợp. Cụ thể, nếu kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp thì độ chính xác của các số liệu trên các báo cáo tài chính càng cao và do đó số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại. - Yếu tố định lượng của tính trọng yếu : kiểm toán viên sử dụng các bảng hướng dẫn của công ty kiểm toán trong việc xác định ban đầu về tính trọng yếu. Trong đó, thu nhập thuần trước thuế, tài sản lưu động, tổng tài sản… thường được chọn làm chỉ tiêu làm gốc. -Yếu tố định tính của tính trọng yếu: Trong thực tế để đánh giá một sai sót có phải là trọng yếu hay không thì kiểm toán viên không chỉ đánh giá về mặt giá trị mà còn phải đánh giá về mặt bản chất của sai sót đó, trong đó có một số sai sót luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô lớn hay nhỏ. - Sau khi kiểm toán viên có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thì kiểm toán viên cần phân bổ mức trọng yếu này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính, đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Mục đích của việc phân bổ này nhằm giúp kiểm toán viên xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất, mà vẫn đảm bảo được tổng hợp các sai sót trên báo cáo tài chính không vượt quá ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. - Do hầu hết các thủ tục kiểm toán thường tập trung vào các tài khoản trên bảng cân đối kế toán nên việc phân bổ các ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được tiến hành đối với bảng cân đối kế toán. Việc phân bổ được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có thể xảy ra là khai khống và khai thiếu. - Cơ sở để tiến hành phân bổ: dựa vào bản chất của các khoản mục, đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kinh nghiệm của kiểm toán viên và chi phí kiểm toán cho từng khoản mục. Trong thực tế khả năng xảy ra sai sót cũng như chi phí kiểm toán cho từng khoản mục thường khó dự đoán trước, cho nên sự phân bổ ban đầu ước lượng về mức trọng yếu thường mang tính chủ quan đòi xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. 2.2.4.2 Đánh giá rủi ro Trên cơ sở mức trọng yếu và phân bổ mức trọng yếu thì kiểm toán viên cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu trên toàn bộ báo cáo tài chính cũng như trên từng khoản mục để phục vụ cho việc thiết kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình kiểm toán phù hợp. Công việc này được gọi là đánh giá rủi ro kiểm toán để lập kế hoạch kiểm toán. - Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường phải xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn, mức rủi ro này được xác định phụ thuộc vào hai yếu tố: + Mức độ mà theo đó người sử dụng thông tin tài chính bên ngoài tin tưởng báo cáo tài chính. + Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được phát hành. - Đánh giá rủi ro tiềm tàng: được thực hiện dựa vào các yếu tố: + Báo cáo công việc kinh doanh của khách hàng + Tính liêm chính của ban giám đốc + Hợp đồng kiểm toán lần đầu hay hợp đồng kiểm toán đã ra + Các nghiệp vụ kt bất thường + Các ước tính kế toán + Quy mô của các số dư trên các tài khoản - Đánh giá rủi ro kiểm soát : liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ, rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá trên toàn bộ báo cáo tài chính, cũng như đối với các khoản mục trên báo cáo tài chính. - Đánh giá rủi ro phát hiện: được xác định từ 3 loại rủi ro trên, xảy ra do các nhân tố : + Kiểm toán viên thực hiện các bước kiểm toán không thích hợp do kế hoạch kiểm toán chi tiết không được chú trọng hoặc do không áp dụng quy trình hợp lý cho từng phần hành. + Kiểm toán viên có phát hiện được các bằng chứng nhưng không nhận thức được các sai sót cũng như ảnh hưởng của nó tới báo cáo tài chính. + Hoàn toàn không phát hiện được sự sai sót do có sự thông đồng. 2.2.5 Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết 2.2.5.1 Lập kế hoạch kiểm tra chi tiết Bước này bao gồm những công việc chủ yếu như: - Xác định mục tiêu của các biện pháp kỹ thuật: mục tiêu này có thể: + Thu thập bằng chứng kiểm toán về sai phạm trọng yếu trong các cơ sở dẫn liệu thuộc các mục tiêu kiểm toán. + Ước tính giá trị chênh lệch kiểm toán đối với những cơ sở dẫn liệu của Báo cáo tài chính đang chứa đựng khả năng có sai phạm trọng yếu. - Lựa chọn các khoản mục trong tổng thể: bao gồm cả xác định số lượng các khoản mục và chọn mẫu khoản mục để kiểm toán. Xác định mẫu chọn cụ thể phải căn cứ vào tình hình thực tế của khách thể kiểm toán và kinh nghiệm của kiểm toán viên. Với loại hình nghiệp vụ, xác định mẫu chọn cần chú ý tới thời điểm chọn mẫu để bảo đảm tính đại diện của mẫu chọn. 2.2.5.2 Lựa chọn các khoản mục để kiểm tra chi tiết Có thể áp dụng các biện pháp kiểm tra chi tiết với từng khoản mục trong tổng số hoặc với nhóm các khoản mục. Nếu áp dụng các biện pháp kiểm tra chi tiết không phải với tất cả các khoản mục trong một tài khoản thì phải chấp nhận mức độ không chắc chắn của bằng chứng kiểm toán thu được. Điều này có thể chấp nhận được vì những lý do sau: - Trong kiểm toán cần thu nhận những bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục chứ không phải là bằng chứng kiểm toán có tính kết luận. - Có thể kết hợp bằng chứng kiểm toán từ nhiều nguồn. - Chi phí kiểm tra tất cả các khoản mục là không kinh tế. Khi không lựa chọn tất cả các khoản mục từ một tài khoản thì chúng ta có thể lựa chọn một số khoản mục dựa trên cơ sở chọn điển hình những khoản mục chính chính hoặc chọn mẫu đại diện hoặc kết hợp cả hai phương pháp. 2.2.5.3 Lựa chọn khoản mục chính Các khoản mục chính là những khoản mục mà dựa trên đánh giá, kinh nghiệm và sự hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng, kiểm toán viên thấy chúng là khoản mục không phát sinh thông thường, không dự đoán trước được hay dễ có sai phạm. Để lựa chọn được những khoản mục chính cần đọc những chứng từ tài liệu. Thực hiện các biện pháp kỹ thuật kiểm tra chi tiết trên các khoản mục đã chọn. Trên cơ sở các khoản mục đã chọn, cần thực hiện các biện pháp kỹ thuật để
Luận văn liên quan