Từ th ờ i nguy ê n thu ỷ, khi lo à i ng ườ i m ớ i xu ấ t hi ệ n, nhu c ầu v ề
c á i đ ẹ p đ ã trở th à nh m ộ t nhu c ầ u khô ng th ể thi ế u. N hững b ức tranh
tả cảnh săn b ắ n: Con b ò r ừ ng, con b ê r ừ ng, đàn hươu phươ ng B ắ c
hay b ức tượ ng mang vẻ đ ẹp chức n ă ng: B à t ổ mẫu – vệ nữ
Vilenđ ooc đ ã đượ c c ác ngh ệ sỹ nguyê n thu ỷ sá ng tá c tr ên vá ch đá ở
c á c hang đ ộ ng n ổ i ti ếng â ntmiara, Phôngđờgom. Niô ,l á tc ô ,
Cô ngbaren v.v b ằ ng than đ en, đá đỏ , đ ấ t v à ng từ th ờ i h ạ k ỳ đ ồ đá
c ũ (M áchđ al ênien) c á ch đây khoảng 30.000 năm là mộ t minh ch ú ng
hùng hồn cho nhu c ầ u thẩm mỹ, nhu cầu làm đ ẹp hang đ ộ ng – nơ I
họ c ư tr ú và cao hơ n l à nhu c ầu tâ m linh.
C ũ ng như c ác khoa họ c khá c, xuấ t ph á t t ừ đ ặc th ủ ri ê ng mang
t í nh khu biệ t, m ỹ họ c có đ ố i t ượ ng nghi ê n c ứ u c ủ a m ì nh. Trong c ái
đ a d ạ ng, phứ c tạ p và phong phú c ủa tự nhi ên và x ã hộ i con ng ườ i,
mỹ họ c xu ấ t hi ện như mộ t “khoa h ọ c di ệu k ỳ”. Đó l à khoa h ọ c
nghiê n cứu c á c m ố i quan h ệ th ẩm mỹ, c ác hiệ n tư ợng thẩ m mỹ trong
khô ng gian thẩm mỹ c ủa con ngườ i. M ỹ h ọ c nghiê n c ứ u c ác quy lu ật
chung nh ất c ủ a sự h ì nh thà nh, phá t tri ể n và bi ểu hi ện củ a c á i th ẩ m
mỹ trong đ ờ i s ố ng con ng ườ i.
Con người tồn tại giữa m ộ t đời sống th ẩm mỹ , gi ữ a khô ng
gian bao la v à thời gian vô tận. Đờ i số ng thẩ m mỹ t ồ n tạ i d ưới hai
d ạ ng: đ ờ i s ố ng v ật ch ấ t v à đ ớ i số ng tinh thầ n. Đờ i số ng v ật ch ấ t l à
nhữ ng giá tr ị th ẩm mỹ tồ n tạ i d ướ i d ạng vậ t th ể đ ồ vậ t (Tangible) c ó
th ể nh ì n thấ y, s ờ th ấy. Đờ i số ng tinh th ầ n là nhữ ng giá tr ị th ẩ m mỹ
phi vậ t th ể (Intangible), ch ỉ có th ể nghe th ấy, cả m thấ y.
15 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3374 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện chứng cái đẹp trong xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN MỸ HỌC
ĐỀ TÀI: BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP TRONG XÃ HỘI
Giảng viên : TS. Thế Hùng
Sinh viên : Phạm Lê Nam
Lớp : K47 - Báo chí
Hà Nội 11 - 2004
Từ thời nguyên thuỷ, khi loài người mới xuất hiện, nhu cầu về
cái đẹp đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Những bức tranh
1
tả cảnh săn bắn: Con bò rừng, con bê rừng, đàn hươu phương Bắc
hay bức tượng mang vẻ đẹp chức năng: Bà tổ mẫu – vệ nữ
Vilenđooc đã được các nghệ sỹ nguyên thuỷ sáng tác trên vách đá ở
các hang động nổi tiếng ântmiara, Phôngđờgom. Niô,látcô,
Côngbaren v.v… bằng than đen, đá đỏ, đất vàng từ thời hạ kỳ đồ đá
cũ (Máchđalênien) cách đây khoảng 30.000 năm là một minh chúng
hùng hồn cho nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu làm đẹp hang động – nơI
họ cư trú và cao hơn là nhu cầu tâm linh.
Cũng như các khoa học khác, xuất phát từ đặc thủ riêng mang
tính khu biệt, mỹ học có đối tượng nghiên cứu của mình. Trong cái
đa dạng, phức tạp và phong phú của tự nhiên và xã hội con người,
mỹ học xuất hiện như một “khoa học diệu kỳ”. Đó là khoa học
nghiên cứu các mối quan hệ thẩm mỹ, các hiện tượng thẩm mỹ trong
không gian thẩm mỹ của con người. Mỹ học nghiên cứu các quy luật
chung nhất của sự hình thành, phát triển và biểu hiện của cái thẩm
mỹ trong đời sống con người.
Con người tồn tại giữa một đời sống thẩm mỹ, giữa không
gian bao la và thời gian vô tận. Đời sống thẩm mỹ tồn tại dưới hai
dạng: đời sống vật chất và đới sống tinh thần. Đời sống vật chất là
những giá trị thẩm mỹ tồn tại dưới dạng vật thể đồ vật (Tangible) có
thể nhìn thấy, sờ thấy. Đời sống tinh thần là những giá trị thẩm mỹ
phi vật thể (Intangible), chỉ có thể nghe thấy, cảm thấy...
Nhưng, dẫu có tồn tại dưới dạng vật chất hay tinh thần, vật thể
hay phi vật thể, các giá trị thẩm mỹ đều phải hướng tới Chân –
Thiện – Mỹ. Một giá trị thẩm mỹ, một tác phẩm nghệ thuật sẽ không
2
có lý do để tồn tại nếu không phản ánh chân thực, chính xác cuộc
sống g
iàu tính nhân văn tốt đẹp và hoàn thiện, hoàn mỹ.
Từ khi con người quan tâm đến thẩm mỹ, cái đẹp là một phạm
trù được quan tâm nhiều nhất so với các phạm trù thuộc hệ thống
khách thể thẩm mỹ. Nó chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống
tư duy lý luận mỹ học trong quá khứ và hiện tại. Thực tế, cái đẹp
giữ vị trí lớn lao trong sự đồng hoá thực tại trên phương diện thẩm
mỹ. Phạm trù cái đẹp có nội hàm lớn, biên độ rộng, nó thẩm thấu
vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, các ngõ ngách của tâm hồn,
vì thê, cái đẹp là dối tượng khám phá của muôn đơi. Các nhà mỹ
học các thời đại chỉ là những người tiên phong khai mở cho một ý
niệm vĩnh hằng mà thôi. L. Tônxtôi đã từng thốt lên: “Sách viết về
cái đẹp đã chất lên thành núi. Cái đẹp vấn còn là một câu đối giữa
cuộc đời.
Cái đẹp là gì? Tầm quan trọng của nó đối với đời sống con
người ra sao? Những biểu hiện, dạng thức tồn tại của cái đẹp như
thế nào? Mặc dù là những câu hỏi không một lời giải nào có thể trả
lời trọn vẹn.
Cái đẹp – trước hết là nhu cầu của con người. Con người
không thể thiếu cái đẹp. Từ lúc sinh ra đến khi về bên kia thế giới,
con người – ai cũng có nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu cái đẹp.
Cái đẹp đầu đời đên với trẻ thơ là bầu vú mẹ và lời ru ngọt
ngào – cái đẹp của nghệ thuật tạo hình và âm nhạc.
“Anh
3
lơn khôn
dưới bầu vú mẹ
và
dại khờ
trước vòm ngực của em”
Lớn lên một chút, đứa trẻ cần không gian đẹp, nhà cửa đẹp,
quần áo, đồ dùng… và cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, con người
cũng cần quan tài, bia mộ và những vong hoa, nhạc hiếu… tiễn đưa.
Cái đẹp hiển nhiên đã trở thành nhu cầu của cuộc sống, nhu
cầu của mỗi cá nhân trong cộng đồng, mỗi dân tộc và nhân loại.
Người hành phúc nhất là suốt cuộc đời được sống trong một
môi trường, không gian, hệ sinh thái thẩm mỹ - được sáng tạo và
thưởng thức, tiếp nhận cái đẹp - đó chnhs là ý nghĩa nhân văn của
cái đẹp.
Cái đẹp có mắt tất cả mọi nơi, mọi lúc dưới dạng vật chất hay
tinh thần. Ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy, cảm thấy bằng
các giác quan.
Cuộc sống không thể thiếu cái đẹp, cái đẹp bất biến, trường
tồn với đời sống con người. Cái đẹp trong thiên nhiên với ảnh quan
sông núi, hoa lá, chim muông, cái đẹp của bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông v.v… Cái đẹp tiềm ẩn trong đời sống con người biểu hiện qua
văn hoá úng xử, cái đẹp của tâm hồn, đạo đức, trí tuệ, tư tưởng, cái
đẹp giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn, càng nâng cao đạo
đưc, trí tuệ góp phần xây dựng nhân cách con người mới. Nhà văn
Xô Viết Đôstôiépxki đã từng viết: “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại hay
4
Nhu cầu về vẻ đẹp và sự sáng tạo thể hiện vẻ đẹp đó gắn bó keo sơn
với con người và nếu không có nó, có lẽ con người sẽ không còn
muốn sống trên đời này”.
Nhà thơ người Đức H.Hainơ yêu cái đẹp đến mức ông coi cái
đẹp chính là cuộc sống của băn thân mình. Trước vẻ đẹp tyệt vời
của vệ nữ Milô, ông đã đến khóc giã từ. Nhà viết hài kịch thiên tài
thế kỷ XVII Môlie đã sáng tạo cái đẹp đến phút cuối cùng của đời
mình trên sân khấu. Ông đã chết trong đêm diễn thứ 4 vở “Người
bệnh tưởng”. Trưới khi dùng súng lục kết thúc cuộc đời đau khổ và
nghiệt ngã của mình ngày 27 – 7 – 1890, thiên tàI hội học Hà Lan
Van Gốt đã để lại cái đẹp thiên thu trên bức chân dung tự hoạc sau
khi đã cắt tai tặng người yêu (Bức tranh này đã bán với một giá
khoảng 72,5 triệu đô la). Nhạc lỹ thiên tài người Đức Betoven đã để
lại cái đẹp trác tuyện trong âm thanh của bản giao hưởng số 5 cung
đô thứ mang tên Định mệnh trong khi ông bị điếc. Tất cả những
điều ấy nói lên vẻ đẹp và sự sáng tạo ra cái đẹp là nhu cầu sống của
con người. Nó gắn bó mật thiết với đới sống xã hội. Chính Mác –
nhà kinh điển của mỹ học Mác – Lênin đã là người đầu tiên đặt vấn
đề thoả mãn sự phát triển của cái đẹp trong đời sống và cơ sở xã hội
của nó. Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống – nó
chính là một hình thức khái quát tư duy con người. Quá trình nhận
thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy từu tượng, từ
cụ thể đến khái quát. Đó là nột quá trình phức tạp.
Lịch sử các tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại đã khẳng định sức
mạnh của chủ thể người trong việc khám phá, kiếm tìm bản chất cái
đẹp. Nhà thơ người Đức Gơt đã khẳng định : “Có thể có được khái
niệm về cái đẹp và có thể diễn tả được khái niệm ấy”.
5
Suốt 30 nghìn năm con người đi tìm cái đẹp, nhưng chưa có
một định nghĩa nào thật sự thoả mãn với nội hàm rộng lớn của nó –
nguyên nhân chủ yếu là ở sự khác nhau của cách tiếp cận. Hầu như
tất cả các nhà mỹ học của nhân loại từ Cổ đại Hy Lạp đến hiện đại
đều cho rằng: Cái đẹp là sự hài hoà, nhưng để luận giải, tìm một đáp
số thật chính xác là không thể.
Từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên, nhà mỹ học Hy Lạp cổ
đại Arít xtốt đã đưa ra luận thuyết: “Cái đẹp nằm trong kích thước
và trong trật tự, bởi vậy, khong có vật nào quá nhỏ cũng như quá
lơn mà lại có thể coi là đẹp”.
Trong khi đó, Henden nhà lý luận mỹ học người Đức thế kỷ
XVIII thì lại nói: “Cốt lõi của toàn bộ cái đẹp là chân lý, bất cứ cái
đẹp nào cũng cẫn dẫn tới cái chân lý và điều thiện”.
Theo quan điểm duy vật, các nhà mỹ học cho rằng cái đẹp có
nguồn gốc từ đời sống. Cách tiếp cận ấy dẫn đến định nghiã về cái
đẹp của nhà mỹ học Phục hưng người Ý Anbécti: “Cái đẹp là sự phù
hợp, sự hoà nhịp như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà
chúng tạo thành, sự hoà hợp và hoà nhịp này phải đáp ứng những số
liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ chức và bài trí mà sự hài hoà - tức cái
nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của tự nhiên đòi hỏi”.
Đối lập với quan điểm duy vật, các nhà Mỹ học duy tâm chủ
quan thì “Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự
vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó”. Nghĩa là
cái đẹp có được là do cái tôi chủ quan quyết định. Các nhà Mỹ học
duy tâm khách quan mà Hêghen đại diện lại cho cái đẹp là phẩm
6
chất đặc biệt của ý niệm tuyệt đối khi nó tìm được hình thức thể
hiện phù hợp nhất.
Với tư cách là nhà văn, M.Goorki lại định nghĩa: “Cái đẹp là
sự phối hợp các chất liệu khác nhau cũng như các âm, màu, từ ngữ
sao cho tác phẩm tạo ra có được một hình thức có thể tác động lên
tình cảm và lý trí như mộ t sức mạnh khơi dậy ở con người sự ngạc
nhiên, lòng kiêu hãnh và niềm sung sướng trước kảh năng sáng tạo
của mình”.
Cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của Mỹ học. Cơ bản
vì nó là nền tảng, là cơ sở, xuất phát điểm, là phạm trù quan trọng,
bao trùm của mỹ học. Trung tâm vì nó ở giữa, đóng vai trò then
chốt, các phạm trù khác phải xoay xung quanh nó, tôn vinh nó, phục
vụ nó. Cái đẹp là một hiện tượng thẩm mỹ vô cùng đa dạng, phong
phú và phức tạp vừa có tính bản thể vừa có tính định hướng.
Tính bản thể của vẻ đẹp mang yếu tố khách quan có dức thể
hiện đa dạng, có thể là một hiện tượng, một hành vi, một lời nói,
một sự vật, một ý tưởng. Cái đẹp được quyết định do phẩm chất của
sự vật, hiện tượng - đó là cái yếu tố được kết hợp hài hoà, cân đối, tỉ
lệ, đúng mực như hoà sắc trong hội hoạ, hoà thanh trong âm nhạc.
Tất cả những phẩn chất ấy tạo nên hiệu quả thẩm mỹ, gây nên cảm
xúc thẩm mỹ qua hai kênh thị giác và thính giác; sự sảng khoái,
thích thú vô tư cũng bắt đầu từ đây.
Tính định hướng là chuẩn mực về cái đẹp do con người xác
định - đó là sự vươn tới lý tưởng thẩm mỹ, tiến tới Chân - Thiện -
Mỹ. Cái đẹp chính là những đặc tính của thế giới tồn tại trong tự
nhiên, xã hội và nghệ thuật. Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực
7
có cơ sở khách quan trong đời sống nhưng đồng thời nó cũng là một
hình thức khái quát của tư duy thể hiện nhận thức của con người.
Mác đã từng nói: “Bản chất của con người là sáng tạo theo quy luật
của cái đẹp”.
Cái đẹp tồn tại khách quan vừa mang tính thời sự, vừa mang
tính muôn thuở. Cái đẹp có được hình thành do quan niệm thẩm mỹ
của từng thời đại, từng giai đoạn lịch sử. Có những hiện tượng thẩm
mỹ hôm nay đẹp, ngày mai xấu, thập kỷ này đẹp, thập kỷ sau không
đẹp. Mốt là một ví dụ. Cách đây một thế kr, chuẩn mực của một cô
gái đẹp là răng đen, mỏ quạ, tóc đuôi gà, áo mớ ba mớ bẩy. Nhưng
đến hôm nay - tất cả trở thành xấu xí vì quan niệm thẩm mỹ đã thay
đổi.
Cái đẹp gắn với sự biến động và phát triển của xã hội loài
người. Cái đẹp là biểu hiện sự đấu tranh giữa cái cũ với cái mới và
bao giờ cái mới cũng chiến thắng theo quy luật tất yếu của lịch sử.
Cái đẹp mang cánh buồm khát vọng, đúng như nhà văn Pháp
Stăngđan đã nói: “Cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc”.
Plêkhanốp đã dẫn ra một ví dụ về quan niệm thẩm mỹ ở một
bộ lạc Châu Phi. Một phụ nữ được xem là đẹp nếu cô ta đẹo trên
tay, chân mình nhiều vòng sắt. Những phụ nữ của những gia đình
giàu có có thể đẹo trên mình tới 16 kg trang sức như thế. Ở thượng
lưu sông Đămberơ, người đàn ông nào bẻ gãy cái răng cửa hàm trên
thì được coi là đẹp. Như vậy cái đẹp được định đoạt bởi quan niệm
của thời đại, mang yếu tố cơ sở xã hội. Chính Trécnesépxky đã nói:
“Mọi tồn tại được gọi là đẹp là tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy
cuộc sống đúng như quan niệm của mình”.
8
Tuy nhiên, mỗi cá nhân chủ thể là một thế giới, có những quan
niệm riêng, người thích cái này, người thích cái nọ. Ba người đi
mua hoa đã là ba sở thích và ba sự lựa chọn khác nhau. Thẩm định
một tác phẩm nghệ thuật lại càng khó. Trường phái ấn tượng (1874)
mà Mônê là chủ soái đã một thời là đối tượng chế giễu của nhà phê
bình mỹ thuật như Lui Lơroi (louis leroy). Trường phái tập thể mà
đại danh hoạ Tây Ban Nha Picatsô đi tiên phong đã bị quần chúng
phản ứng đến mức đã đổ axít rạch nắt mấy bức tranh mà ngày nay
trở thành vô giá.
Do vậy, thích hay không thích là thị hiếu của mỗi cá nhân,
tuyệt nhiên không nên xem đó là chân lý và cũng không được đồng
nhất sở thích cá nhân với giá trị thẩm mỹ khách quan của sự vật
hiện tượng.
Ngược lại với những cái đẹp hoàn hảo trọn vẹn, mực thước
mang tính hàn lâm (Academie) thì tồn tại vĩnh hằng muôn thuở như
Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ của ông hoàng thi ca Nga Puskin,
Những người Khốn khổ của Vichto Huygô, bức tranh mùa thu vàng
của Lêvintan, người đàn bà xa lạ của Cramxcôi, La Giôcông của
Lêôna đờ Vanhxi, Vệ nữ Milô bất diệt hay bản Sêrenát (chiều tà)
của nhạc sĩ thiên tài người Áo F.Sube là trường tồn, bất biến. Trên
thế giới này, hàng ngày vẫn vang lên âm thanh tuyệt vời của ông ở
các dàn nhạc lớn trên nhiều quốc gia.
Cái đẹp có hai hệ tiêu chí. Một là Chân - Thiện - Mỹ. Hai là
tính nhân dân, tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Cái đẹp
phải phục vụ đại đa số nhân dân lao động, phải mang tính giai cấp
nhất định mang đặc trưng bản sắc của từng dân tộc để góp phần tạo
9
nên diện mạo thẩm mỹ riêng của từng quốc gia, dân tộc góp vào cái
đẹp của toàn nhân loại.
Cái đẹp phải có những phẩm chất cấu thành những thực thể
toàn vẹn. Hài hoà, cân đối, toàn diện, toàn mỹ. Cái đẹp là sự hợp lý
về tỉ lệ giữa các bộ phận, mảng khối, màu sắc, lượng trong chất,
chất trong lượng, giữa nội dung và hình thức. Hình thức chuyển tải
nội dung, nội dung diễn đạt hình thức, sự kết hợp hài hoà giữa một
sự vật và giữa các sự vật, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn đến
thống nhất toàn vẹn.
Cái đẹp luôn biến đổi, ở đâu có con người, có sự sống thì cái
đẹp xuất hiện, đó là quy luật chung của hoạt động sáng tạo. Mắc đã
viết: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của
giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo
của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo
thích dụng cho đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất
theo quy luật của cái đẹp”.
Các lĩnh vực biểu hiện của cái đẹp.
* Cái đẹp trong tự nhiên.
Cái đẹp trong tự nhiên doa tạo hoá, do chính trự nhiên sinh ra,
tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người như: vẻ đẹp của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, cỏ cây hoa lá,
chim muông cầm thú, sông núi, mây trời, trăng sao, nắng mưa
những dòng sông, biển cả cỏ cây…
Cái đẹp trong thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú, hấp dẫn
nhưng rời rạc, không chọn lọc. Cái đẹp trong tự nhiên biểu hiện qua
10
những thuộc tính vật chất, những hiện tượng thẩm mỹ như hình
dáng, âm thanh, màu sắc, đường nét... tác động trực tiếp đến các
giác quan của con người tạo nên những cung bậc của cảm xúc thẩm
mỹ. Khi ra biển, ta say mê trước mênh mông mây nước và sóng biển
dào dạt. Khi lên rừng ta choáng ngợp trước cái đẹp của đại ngàn bất
tận. Khác với mỹ học duy tâm, mỹ học duy vật coi cái đẹp trong tự
nhiên là yếu tố quan trọng bởi nhờ có cái đẹp này, người nghệ sỹ
mới tạo được cảm xúc thẩm mỹ - nơi bắt nguồn của cảm hứng sáng
tạo ra thi, ca, nhạc, hoạ và các loại hình nghệ thuật khác.
Nhờ vẻ đẹp tuyệt với của dòng sông Đanuýp mà Giôhanstrauss,
nhạc sĩ thiên tài người Áo, Hoàng tử của điệu valsse đã viết được
bản nhạc bất tử Đanuýp xanh và Ivanôvích, nhạc sỹ người Nga đã
viết được Sóng Đanuýp. Nhờ có vẻ đẹp của mùa thu mà hoạ sỹ thiên
tài người Nga Lêvintan đã để lại bức tranh mùa thu vàng quý giá,
thi sĩ Lưu Trọng Lư để lại Tiếng thu, Nguyễn đình Thi sống mãi bởi
: Hà Nội vào thu hương cốm mới/ anh đi bên em trong đêm Hà Nội/
nghe những phố dài xao xác hơi may...”, Đặng Thế Phong - nhạc sĩ
tiêu biểu của nền tân nhạc thời tiền chiến đã lừng lững đi vào nền
âm nhạc Việt Nam hiện đại bằng hai ca khúc về mùa thu: Con
thuyền không bến và Giọt mưa thu, Trịnh Công Sơn để lại: Nhớ mùa
thu Hà Nội v.v...
Trước khi loài người xuất hiện, trên hành tinh này đã có
những sinh vật đất đai, sông ngòi, hoa lá và khi con người thoát thai
từ vượn, cũng chỉ là sản phẩm của tự nhiên mà thôi. Đ iều này đã
chống lại quan điểm duy tâm cho rằng con người và muôn loài là
sản phẩm của thượng đế, thánh thần. Qua bao năm tháng, thiêng
nhiên đã tác động qua con người và chịu sự biến đổi của con người.
11
Bằng lao động, con người đã phát hiện ra tính nhân loại của tự
nhiên. Mác đã từng nói: “con người là tự nhiên có tính chất người”.
Có thể nói: thiên nhiên là ngọn nguồn, là nơi bắt đầu của mọi
cái đẹp. Vẻ đẹp của thiên nhiên ngày càng phong phú bởi con người
đã thổi vào nó một linh hồn, tác động vào nó bằng tư duy và hành vi
thẩm mỹ, đó là việc chinh phục tự nhiên và bảo vệ tự nhiên: Mối
quan hệ biện chứng hữu cơ giữa chủ thể người và thiên nhiên đã tạo
ra cái đẹp phong phú, đa dạng và nhân văn hơn. Con người đã phát
hiện ra cái đẹp của tự nhiên, đưa nó vào quỹ đạo quy luật thẩm mỹ
để phục vụ con người. Vịnh Hạ Long, Tràng An, Bích Động, Tam
Cốc, Phong Nha- Kẻ Bàng, Vườn Chim Minh Hải là những ví dụ.
Ngày nay, việc giữ gìn vẻ đẹp của phong cảnh, môi trường đã trở
thành nghĩa vụ xã hội của mọi công dân đối với di sản văn hoá của
từng quốc gia và nhân loại. M.Gorki đã từng nói: “Những sản phẩm
do con người làm ra là thiên nhiên thứ hai” nghĩa là con người đã
vật chất hoá ý tưởng, coi thiên nhiên là đối tượng thẩm mỹ và cải
biến thiên nhiên thành tác phẩm nghệ thuật.
Cái đẹp trong xã hội.
Cái đẹp trong xã hội do con người tạo ra, nó thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó liên quan mật thiết với ý
tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức. Một xã hội tốt đẹp là một xã hội
mà chủ nghĩa nhân dạo thấm sâu vào các mối quan hệ giữa con
người với con người, nó trở thành văn hoá và văn minh xã hội. Biểu
hiện của cái đẹp trong xã hội có thể tóm tắt trong cụm từ “Văn hoá
ứng xử”. Văn hoá ứng xử là thế ứng xử, là sự thể hiện triết lý sống,
các lối sống, lối suy nghĩ, lối hành động của một cộng đồng người
12
trong việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, với xã hội, từ vi mô (gia đình) đến vĩ mô (xã hội, nhân
gian).
Ứng xử văn hoá là những quy định thành văn và bất thành văn
trong tất cả các xã hội. Cách ứng xử phản ánh trình độ văn hoá, sự
giáo dục của gia đình và xã hội cũng như sự tu dưỡng của cá nhân,
mỗi con người, mỗi dân tộc.
Cái đẹp trong xã hội vô cùng phong phú, đa dạng, đa chiều, đa
diện với nhiều giai tầng đẳng cấp khác nhau.
Cái đẹp này bắt nguồn từ những quan niệm chính trị, đạo đức,
truyền thống, lối sống. Muốn vậy, mỗi con người - chủ thể trong xã
hội phải phấn đấu trở thành một con người phát triển toàn diện, hài
hoà giữa vẻ đẹp nội dung và hình thức, biểu hiện qua văn hoá nói và
văn hoá hành động góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tốt đẹp.
Cái đẹp trong nghệ thuật.
Cái đẹp trong nghệ thuật là tổng hoà cái đẹp trong tự nhiên và
cái đẹp trong xã hội. Cái đẹp trong nghệ thuật do người nghệ sĩ tạo
ra. “không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại chiếm một vị trí quan
trọng đến như trong nghệ thuật”1.
Nghệ thuật là nơi hội tụ, là thế giới của cái đẹp. Cái đẹp trong
nghệ thuật trước hết là sự phản ánh chân thực cuộc sống bằng tài
năng của người nghệ sỹ. Những tác phẩm trác tuyệt đều bắt nguồn
1 Lê Ngọc Trà - Lâm Vĩnh - Giáo trình Mỹ học đại cương-Bxb Giáo dục 1999-
tr60
13
từ tình yêu cuộc sống, mang lại những tình cảm lành mạnh thấm
đãm tính nhân văn.
Nghệ thuật đẹp là nghệ thuật xây dựng được những hình tượng
đẹp mang tính điển hình phong phú, có tác động tới cuộc sống, vào
tiềm thức từng con người để con ngời đồng vọng cùng cái đẹp. Hình
tượng nghệ thuật đẹp là sự thu nhỏ những khát vọng cao đẹp của
con người.
Cái đẹp trong nghệ thuật phải lá sự hoàn mỹ, là sự thống nhất
biện chứng giữa nội dung và hình thức. Nghệ thuật đẹp phải luôn
luôn có sự song hình: nội dung phong phú và hình thức hấp dẫn.
Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù thuộc thượng tầng
kiến trúc và con người sáng tạo nghệ thuật theo quy luật của cái
đẹp.
Nghệ sĩ là người sáng tạo ra cái đẹp trong nghệ thuật bằng tài
năng, trí tuệ và cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác phẩm nghệ thuật
là tâm huyết, là đứa con tinh thần, là bức thông điệp của người nghệ
sĩ muốn trao gửi tới công c