Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế

Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Tùy điều kiện các nước, CSTT có thể xác lập theo hai hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng –CSTT chống thất nghiệp) hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát –CSTT ổn định giá trị đồng tiền).

pdf17 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2033 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế Chính sách tài chính tiền tệ 1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Tùy điều kiện các nước, CSTT có thể xác lập theo hai hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng –CSTT chống thất nghiệp) hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát –CSTT ổn định giá trị đồng tiền). 1.2 Mục tiêu chính sách tiền tệ Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu ổn định bao gồm: Ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá. Mục tiêu tăng trưởng bao gồm ổn định về công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế. 1.2.1 Nhóm mục tiêu ổn định Ổn định giá cả:Ổn định giá cả được coi là mục tiêu của chính sách kinh tế. Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá tăng lên (lạm phát) gây lên tình trạng bấp bênh trong kinh tế. Ví dụ, thông tin chứa đựng trong giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ khó giải thích hơn khi mức giá chung của giá cả đều thay đồi và do vậy những người tiêu dùng, các nhà kinh doanh và chính phủ trở nên khó ra quyết định. Ví dụ điển hình nhất của giá cả không ổn định là siêu lạm phát mà Đức đã trải qua những năm 1921 - 1923 Ổn định lãi suất:Mong muốn ổn định lãi suất vì biến động lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một lãi suất ổn định sẽ giúp các thành phần kinh tế hoạch định được kế hoạch tiêu dùng và sản xuất trong tương lai. Ổn định thị trường tài chính: Ổn định thị trường tài chính là vấn đề rất quan trọng của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị trường tài chính là nơi giao dịch các nguồn lực tài chính, mà thực chất là giao dịch các khối tài sản của nền kinh tế, được thể hiện dưới hình thức tiền tệ và các công cụ có giá như tiền tệ, thường được gọi là công cụ tài chính hay hàng hóa tài chính. Ở đó, nó bao gồm việc chuyển giao các quyền sử dụng các khoản tài chính (các khoản vay nợ: tín dụng, trái phiếu, tín phiếu) hoặc chuyển giao các quyền sở hữu tài sản tài chính (các cổ phiếu, các phần vốn góp vào công ty, …) và các hợp đồng tài chính phái sinh (các quyền chọn, hợp đồng tương lai….) . Như vậy, ổn định thị trường tài chính, trước hết là sự ổn định sức mua của đơn vị tiền tệ quốc gia. Sự ổn định này có thể hiểu cả trên hai mặt. Thứ nhất, giá cả hàng hóa – dịch vụ không biến động. Thứ hai, tỷ giá của nội tệ so với ngoại tệ mạnh không biến động. Ổn định thị trường ngoại hối: Với tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu quan trọng của CSTT. Ổn định tỷ giá mang lại cơ hội trao đổi ngoại thương cho các chủ thể của nền kinh tế, dễ dàng hơn trong việc hoạch định được hoạt động trao đổi trong tương lai. Việc phân nhỏ các mục tiêu ổn định trong mục tiêu cuối cùng nhằm mong muốn sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, các sở ban ngành các cấp để có thể cùng hoàn thành mục tiêu một cách đúng đắn và chính xác nhất. 1.2.2 Nhóm mục tiêu tăng trưởng Tăng công ăn việc làm: Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì hiện tượng thất nghiệp là hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy, đảm bảo công ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường trực của các quốc gia. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm cao. CSTT có thể tác động đồng thời hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn, lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn, lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp cầu ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Rõ ràng sự phối hợp của 2 muc tiêu ổn định và tăng trưởng là rất quan trọng. Bởi vì không phải cùng một lúc cả hai mục tiêu cùng được thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi đặt ra mục tiêu cho CSTT cần phải có sự dụng hòa. Cụ thể, phải tùy lúc, tùy thời tùy điều kiện mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy, NHNN phải luôn lắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều tiết chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp. 1.3 Các công cụ chính sách tiền tệ 1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở Khái niệm: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá (GTCG) giữa một bên là NHNN với bên kia là các tổ chức tín dụng (TCTD) trong đó NHNN đóng vai trò là người điều hành hoạt động thị trường. Cơ chế tác động: Khi NHNN mua bán GTCG sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Đặc điểm nghiệp vụ: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng giấy tờ có giá (GTCG) được mua bán tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở: -NHNN vừa là thành viên vừa là người điều hành thị trường -Các thành viên khác là các TCTD thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện + Có tài khoản tiền gửi tại NHNN (Tại Sở Giao dịch hoặc chi nhánh NHNN tỉnh, TP). + Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ TTM (yêu cầu hiện nay là máy tính, máy fax và điện thoại kết nối internet). + Có Đăng ký tham gia nghiệp vụ TTM. Các công cụ tài chính được giao dịch: Các công cụ tài chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ TTM bao gồm các loại GTCG phát hành bằng đồng Việt Nam như: Tín phiếu NHNN, TPCP (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát hành công trái) và trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội phát hành. - Điều kiện chung để các công cụ tài chính được tham gia giao dịch nghiệp vụ TTM: Có thể giao dịch đươc; Được phát hành bằng đồng VN; Lưu ký tại NHNN; Thời hạn còn lại của GTCG tối đa là 91 ngày (Đối với trường hợp mua, bán hẳn) và phải dài hơn thời hạn mua, bán (Đối với trường hợp mua hoặc bán có kỳ hạn). - Điều kiện cá biệt đối với trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ và trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội phát hành: + Là các trái phiếu thuộc quyền sở hữu hợp pháp của TCTD; TCTD phải chịu trách nhiệm thanh toán trong trường hợp trái phiếu bị rủi ro. + Các trái phiếu được bán trong trường hợp NHNN mua có kỳ hạn đồng thời bị hạn chế khối lượng giao dịch trong 1 lần (tối đa bằng 50% của giá trị giao dịch tái cấp vốn). + Số tiền TCTD được nhận khi bán trái phiếu: Tối đa bằng 80% (Đối với trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát hành) và tối đa bằng 70% (Đối với trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội phát hành) giá trị trái phiếu tại thời điểm định giá. Phương thức giao dịch: - Mua hoặc bán hẳn GTCG (mua hoặc bán hết thời hạn còn lại của GTCG). - Bán và cam kết mua lại GTCG (giao dịch có kỳ hạn), bao gồm: + NHNN bán GTCG và cam kết mua lại sau một thời gian nhất định. +TCTD bán GTCG và cam kết mua lại sau một thời gian nhất định theo yêu cầu của NHNN. Phương thức đấu thầu - Đấu thầu khối lượng: NHNN thông báo cho TCTD mức lãi suất đấu thầu và có thể thông báo hoặc không thông báo trước khối lượng GTCG cần mua hoặc bán trong từng phiên đấu thầu. -Đấu thầu lãi suất: NHNN có thể thông báo hoặc không thông báo trước khối lượng GTCG cần mua hoặc cần bán trong từng phiên đấu thầu. 1.3.2 Chính sách chiết khấu Khái niệm: Chiết khấu, tái chiết khấu GTCG của các ngân hàng là nghiệp vụ NHNN mua các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này được các ngân hàng mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp. Sau đây gọi tắt là nghiệp vụ chiết khấu. Cơ chế tác động: Khi NHNN tăng (giảm) lãi suất chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHNN làm cho khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Đặc điểm nghiệp vụ: Chính sách chiết khấu giúp NHNN thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán và có thể kiểm soát được hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường. Đối tượng và điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu: Các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN. - Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHNN. Hình thức chiết khấu: - Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG (Thời hạn còn lại của GTCG tối đa không quá 90 ngày). - Chiết khấu có kỳ hạn (thời hạn còn lại của GTCG lớn hơn thời hạn giao dịch). Các loại GTCG được chiết khấu: - Tín phiếu NHNN, Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, công trái (Được sử dụng trong cả hai hình thức chiết khấu). - Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát triển phát hành, Trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh phát hành (được sử dụng trong hình thức chiết khấu có kỳ hạn). Phương thức chiết khấu: - Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHNN. - Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua Fax tới Sở Giao dịch NHNN (trường hợp qua Fax, gửi bản chính theo đường bưu điện). 1.3.3 Dự trữ bắt buộc Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng phải giữ lại do NHNN quy định, gửi tại NHNN, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay mà thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của NHTM. Mặt khác, khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng) làm lãi suất cho vay tăng (giảm) từ đó làm cho lượng tiền cung ứng giảm (tăng). Đặc điểm nghiệp vụ: Đây là công cụ mang nặng tính quản lí nhà nước nên giúp NHNN chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện chậm chạp, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM. 1.3.4 Hạn mức tín dụng Khái niệm: Hạn mức tín dụng là việc NHNN quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (thường là một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, lạm phát…) sau đó NHNN sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHNN quy định. Cơ chế tác động: Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lí đối với khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHNN. Đặc điểm nghiệp vụ: Giúp NHNN điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt là tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song nhược điểm của nó cũng rất lớn, đó là triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHNN và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên. 1.3.5 Cơ chế điều hành lãi suất Khái niệm: NHNN đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy mô tín dụng của nền kinh tế và NHNN có thể quản lí mức cung tiền của mình. Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. Đặc điểm nghiệp vụ: Giúp cho NHNN thực hiện quản lí lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kì, điều này phù hợp với các quốc gia khi ch]a có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn, do vậy có phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác, việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. 2. Thực trạng chính sách tiền tệ tại Việt Nam hiện nay 2.1 Các công cụ chính sách tiền tệ được áp dụng tại Việt Nam hiện nay Công cụ lãi suất Chính sách, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc đảm bảo các mục tiêu của CSTT:kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất OMO, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD.Các TCTD được quy định lãi suất thỏa thuận đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên; lãi suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các đối tượng khách hang. Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần) và lãi suất chiết khấu(sàn). Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo nguyên tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%, thanh khoản của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011. Từ tháng 6/2011-10/2012:Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ nói trên. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND cố định 3% và không thay đổi. Việc NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng 2012. Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậy hạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD. Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM, không căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của từng ngân hàng,chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều của các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng. 3. Tái cấp vốn Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ Tái cấp vốn để cấp tín dụng cho các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá, chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích: cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ và đồng bộ về chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện đối với các TCTD. Thông qua các hình thức tái cấp vốn:cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các NHTM trong thời gian qua. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp. Kiểm soát hạn mức tín dụng Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định.Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng. 2.2 Các tác động của chính sách tiền tệ tại Việt Nam hiện nay Những thành công đạt được từ việc thực hiện chính sách tiền tệ Chính sách tiền
Luận văn liên quan