Vô sinh là mất hoặc thiếu khả năng sinh sản khi hai người chung sống và có
quan hệ trong vòng 2 năm. Biểu hiện là không thấy thụ thai, hoặc có thụ thai
nhưng lần nào cũng sẩy.
Hiện nay vô sinh khá phổ biến chiế m tỷ lệ 10-15%. Có hai loại vô sinh:
Vô sinh nguyên phát : chưa có thai lần nào sau 2 năm chung sống.
Vô sinh thứ phát : có thai 1 lần và không có thai lại sau 2 năm chung sống
55 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2878 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………….
TIỂU LUẬN
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Chương I .Các rủi ro trong sinh sản [10]
1.Vô sinh
a. Khái niệm:
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
2
Vô sinh là mất hoặc thiếu khả năng sinh sản khi hai người chung sống và có
quan hệ trong vòng 2 năm. Biểu hiện là không thấy thụ thai, hoặc có thụ thai
nhưng lần nào cũng sẩy.
Hiện nay vô sinh khá phổ biến chiếm tỷ lệ 10-15%. Có hai loại vô sinh:
Vô sinh nguyên phát : chưa có thai lần nào sau 2 năm chung sống.
Vô sinh thứ phát : có thai 1 lần và không có thai lại sau 2 năm chung sống.
b. Nguyên nhân gây vô sinh:
Rượu có tác hại đến thai nhi, nhưng khi nữ uống rượu vừa phải có lẽ không
tác hại đến khả năng thụ thai. Nam uống rượu quá nhiều sẽ làm giảm khả
năng sinh sản.
Nữ hút thuốc lá nhiều sẽ bị giảm khả năng thụ thai và sớm mãn kinh. Ở nam,
thuốc lá cũng là một tác nhân ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Cà phê chưa có đủ chứng cứ khoa học cho rằng có ảnh hưởng đến khả năng
thụ thai.
Phụ nữ quá béo phì thường bị chứng không rụng trứng, và nếu có rụng trứng
sẽ ít khả năng thụ thai. Chứng béo phì ờ nam không có ảnh hưởng đến khả
năng sinh sản.
Những yếu tố gây vô sinh ở phái nữ:
Bất thường trong chu kỳ rụng trứng
Bất thường trong ống dẫn trứng
Lạc nội mạc tử cung
Ngoài ra những yếu tố sau đây có thể làm thai khó đậu hoặc dễ hư thai:
Tuổi trên 37
U tử cung
Bướu trong tử cung
Bất thường cấu trúc tử cung
Những yếu tố gây vô sinh ở phái nam:
Tinh trùng chất lượng và số lượng kém, di động kém.
Tinh dịch chất lượng kém và thể tích kém.
Nguyên nhân do nữ 30-40% các trường hợp
Nguyên nhân do nam 30% các trường hợp
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
3
Nguyên nhân có cả nam lẫn nữ 20% các trường hợp
Không tìm thấy nguyên nhân 10-15% các trường hợp
c. Phương pháp điều trị:
- Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (thụ tinh nhân tạo): Tinh trùng được chọn lọc
và bơm vào buồng tử cung người vợ cho những trường hợp vô sinh chưa rõ nguyên
nhân, cổ tử cung bất thường.
- Kích thích buồng trứng.
- Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTÔN): Tinh trùng của người chồng và trứng của
người vợ được thụ tinh trong phòng thí nghiệm, sau đó phôi được cấy vào tử cung
người vợ. Áp dụng cho các trường hợp tắc và tổn thương vòi trứng, vô sinh không
rõ guyên nhân, bất thường tinh trùng nhẹ.
- Xin trứng, TTTÔN: Tinh trùng của người chồng và trứng của người cho được thụ
tinh trong ống nghiệm, sau đó được cấy vào tử cung người vợ. Áp dụng cho những
người bị suy buồng trứng sớm, bị cắt 2 buồng trứng.
- Xin tinh trùng: Cho các trường hợp không có tinh trùng.
- Mang thai hộ: Tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ được TTTÔN,
sau đó cấy phôi vào người mang thai hộ. Áp dụng cho những trường hợp người vợ
không thể mang thai do bệnh lý, tử cung bị bất thường, dị dạng.
- ICSI và MESA ICSI: Áp dụng cho trường hợp người chồng không có tinh trùng
trong tinh dịch do bị tắc nghẽn đường dẫn tinh. ICSI là phương pháp thụ tinh trong
ống nghiệm bằng cách tiêm tinh trùng vào bào tương trứng. Còn trong MESA
ICSI, người chồng sẽ được mổ để lấy tinh trùng, đồng thời người vợ được chọc hút
lấy trứng, sau đó thực hiện các thủ thuật TTTÔN.
- Canh ngày rụng trứng và giao hợp xung quanh thời điểm đó: Áp dụng với những
cặp vợ chồng trẻ mới phát hiện bị vô sinh, nguyên nhân chưa rõ ràng.
2. Thai ngoài dạ con
a. Khái niệm: Chửa ngoài tử cung là trường hợp trứng không làm tổ ở buồng tử
cung mà trứng làm tổ ở bất kì nơi nào trên đường đi của nó.
- Vòi trứng chiếm 95%
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
4
- Chửa trên bề mặt buồng trứng chiếm 3%
- Chửa trong ổ bụng chiếm 2%
b. Nguyên nhân
Tất cả những yếu tố làm chậm trễ hay ngừng di chuyển của trứng thụ tinh
vào trong tử cung đều là nguyên nhân gây thai ngoài tử cung. Thông thường, có 3
nhóm nguyên nhân chính gây nên hiện tượng này.
Nhóm 1: Viêm nhiễm vòi trứng
Viêm nhiễm vòi trứng sẽ gây tắc, hẹp vòi trứng và dễ gây ra tình trạng thai
ngoài tử cung. Viêm nhiễm vòi trứng thường do bệnh lây truyền qua đường tình
dục gây nên như: trực khuẩn lậu hay bệnh do chlamydia trachomatis. Trước khi bị
viêm phần phụ, bệnh nhân thường bị bít vòi trứng hoàn toàn dẫn đến vô sinh. Nạo
phá thai cũng là một nguyên nhân gây viêm nhiễm vòi trứng.
Nhóm 2:
Các bệnh phụ khoa như: Khối u phần phụ, dị dạng bẩm sinh vòi trứng…
Vòi trứng có thể bị tắc hoặc hẹp bởi bệnh lạc nội mạc tử cung, khối u phần phụ
chèn ép vòi trứng, những phẫu thuật lên vùng bụng gây dị dạng vòi trứng như: vòi
trứng bị kéo dài, bị gập góc… hoặc những tác động trực tiếp lên vòi trứng từ trước
như: triệt sản, nối vòi trứng…
Vòi trứng còn có thể bị tắc, hẹp bẩm sinh. Ngoài ra, hẹp vòi trứng có thể do:
- Dị dạng bẩm sinh vòi trứng.
- Bệnh lạc nội mạc tử cung.
- Khối u phần phụ chèn ép vòi trứng.
- Những phẫu thuật ở vòi trứng trước đó như: triệt sản, nối vòi trứng.
Nhóm 3: Chất nicotin
Các nghiên cứu cho thấy, thuốc lá không chỉ làm chậm và khó thụ thai, sảy
thai tự nhiên mà còn gây nên hiện tượng thai ngoài tử cung ở các thai phụ.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
5
Chất nicotin có trong thuốc lá làm hỏng các nhung mao phủ trên các thành
ống và làm giảm cử động của các vòi trứng, gây khó khăn cho quá trình trứng thụ
tinh tiến về tử cung. Từ đó dẫn đến trứng làm tổ trong vòi trứng và phát triển thành
thai ngoài tử cung, gây nguy cơ vỡ vòi trứng. Những phụ nữ hút từ 10 điếu
thuốc/ngày trở lên có nguy cơ mắc chứng này gấp 1,5 lần người khác.
3. Chửa trứng
a. Khái niệm:
Chửa trứng là bệnh của tế bào nuôi do các gai rau thái hóa phồng lên tạo
thành túi ối chứa dịch dính vào nhau như chùm nho. Thường toàn bộ tử cung chứa
các túi dịch (như trứng ếch). Trong trường hợp chửa trứng, nhau thai phát triển
thành khối không được kiểm soát. Đa số trường hợp không có bào thai, được gọi là
"chửa trứng hoàn toàn", một số trường hợp có bào thai nhưng không sống được gọi
là "chửa trứng bán phần".
b. Nguyên nhân:
Là hiện tượng thai nghén không bình thường, trong đó tổn thương đã làm
trứng hỏng, gai rau vẫn được nuôi dưỡng bằng máu mẹ nên tiếp tục hoạt động chế
tiết gây tinh dịch trong lớp đệm rau và tế bào nuôi tăng sinh.
c. Phương pháp điều trị:
Nạo sạch "trứng" với người có nhu cầu sinh con hoặc cắt tử cung đối với
người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Sau khi xử trí chửa trứng, người bệnh cần xét
nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần/lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường.
Tiếp theo sẽ thử nước tiểu 4 tuần/lần. Thời gian theo dõi 6 tháng. Ngoài ra
trong các lần khám, có thể siêu âm nếu thấy cần thiết.
Nếu bệnh trở thành chửa trứng xâm nhập hoặc ung thư nhau thai, sẽ dùng
các phương pháp chữa bệnh sau:
Chữa bằng hoá chất: dùng thuốc để diệt ung thư.
Chữa bằng phẫu thuật: ở một số trường hợp.
Chữa bằng tia xạ: dùng tia phóng xạ để diệt ung thư, chỉ trong một số
trường hợp.
4. Đa thai
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
6
a. Khái niệm:
Đa thai là sự phát triển đồng thời hai hay nhiều thai trong lòng tử cung người
mẹ. Có 2 loại đa thai:
Đa thai một trứng
Đó là hiện tượng khi chỉ có một noãn thụ tinh nhưng trong quá trình phát
triển chúng bị phân đôi hoặc phân ba, bốn…
Đặc điểm
Đa thai một trứng luôn cùng giới tính, giống y nhau về mặt di truyền và có
đặc điểm sinh học rất giống nhau. Tuy vậy, trẻ đa thai cùng trứng vẫn có thể có các
điểm khác biệt do môi trường ngoài gây ra, thí dụ như do mạch máu trong bánh
nhau phân phối không đều cho các thai khiến một thai phát triển hơn thai kia.
Đa thai cùng trứng thường xảy ra ở giai đoạn phôi nang, khoảng cuối tuần
thứ nhất và chia đôi mầm phôi thành hai hoặc nhiều phôi. Hệ quả là hai hoặc nhiều
mầm phôi với các túi ối riêng, nhưng chỉ có một túi đệm và một bánh rau (nhau)
chung.
Nếu sự phân chia diễn ra sớm khoảng một đến ba ngày sau khi thụ thai thì
các bé sẽ phát triển riêng biệt và đồng đều nhau.
Nếu sự phân chia diễn ra muộn hơn, từ khoảng ngày thứ 5 đến ngày thứ 10
sau khi thụ thai thì hai bé vẫn phát triển riêng biệt nhưng không đồng đều nhau,
một thai có thể phát triển to béo, đôi khi phù nề, tăng hồng cầu; trong khi thai còn
lại thì còi cọc, thiếu máu, thậm chí có thể teo và chết đi. Thường có sự thông
thương tuần hoàn giữa hai thai nhi, do đó máu đến nuôi có thể dồn hẳn về một thai
nhi, trong khi thai kia thì rất ít hoặc không được nuôi dưỡng.
Khi sự phân chia muộn hơn nữa, sự tách đôi không xảy ra hoàn toàn được
nên còn một chỗ nào đó dính nhau: Hai bé có thể dính nhau ở một phần thân thể
hoặc có chung một cơ quan, bộ phận nào đó. Các trường hợp này được gọi tên theo
vị trí dính thai (thí dụ như song thai dính ở vùng ngực - thoracopagus, song thai
dính nhau vùng chậu hông - ischiopagi).
Trường hợp mầm phôi tách đôi muộn (trong tuần lễ thứ 2) sẽ dẫn đến đa thai
cùng trứng chỉ có một túi ối và một túi đệm. Các trường hợp này thai ít khi sống
được do dây rốn rối nhiều, tuần hoàn máu qua dây rốn bị nghẽn và một hay cả hai
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
7
thai sẽ chết. Tỷ lệ đa thai cùng trứng có một ối chiếm tỷ lệ 1/4 trong tổng số các
trường hợp song thai cùng trứng.
Đa thai khác trứng
Đây là trường hợp các thai nhi được sinh ra do việc thụ tinh bởi các trứng và
tinh trùng khác nhau. Trứng có thể rụng từ một buồng trứng, hoặc từ hai buồng
trứng. Tinh trùng có thể từ cùng một người đàn ông hoặc từ những người đàn ông
khác nhau. Các trứng được thụ tinh có thể xảy ra trong cùng một lần giao hợp,
hoặc các lần giao hợp khác nhau nhưng phải trong cùng một chu kỳ kinh nguyệt -
do vậy còn gọi là sự bội thụ tinh đồng kỳ. Sự bội thụ tinh khác kỳ (các trứng thụ
tinh ở các tháng khác nhau) chưa thấy xảy ra ở loài người.
Đặc điểm
Vì là các tinh trùng khác nhau thụ tinh với các trứng khác nhau, nên khi sinh
ra các em bé này có thể khác nhau hoàn toàn, một trai, một gái, hoặc cũng có thể
ngẫu nhiên cùng là con trai, hoặc cùng là con gái, nhưng sẽ không giống nhau như
hai giọt nước mà chỉ là giống nhau như anh em một nhà thôi. Các trường hợp đa
thai khác trứng có thể do yếu tố di truyền, yếu tố gia đình... và còn có thể do dùng
thuốc kích thích rụng trứng trong khi điều trị vô sinh, làm cho hàng tháng không
chỉ một trứng chín và rụng, mà có khi 2-3 trứng cùng chín và cùng rụng. Và nếu tất
cả các trứng này đều may mắn gặp được "người hùng" của mình, thì khoảng 9
tháng sau, người mẹ sẽ cho ra đời không phải chỉ một bé mà là hai, ba bé.
Trẻ đa thai khác trứng có thể cùng giới hay khác giới, và như thế không
giống nhau về mặt di truyền. Điểm chung duy nhất của chúng là nằm trong tử cung
trong cùng một khoảng thời điểm.
Đa thai khác trứng luôn luôn có các túi ối và túi đệm riêng biệt, nhưng đĩa
đệm và phần bánh rau (nhau) có thể riêng hoặc kết nhập chung lại với nhau.Trường
hợp mầm phôi tách đôi sớm (giai đoạn từ 2-8 tế bào) thì hai thai có hai túi ối, 2 túi
đệm và hai bánh rau riêng biệt. Hai bánh rau này có thể kết nhập hay không kết
nhập lại thành một bánh. Trong trường hợp này rất khó phân biệt song thai cùng
trứng với song thai khác trứng nếu chỉ dựa trên sự phân tích rau thai. Muốn xác
định hai đứa trẻ sinh đôi có cùng giới tính, cùng nhóm máu có phải cùng trứng hay
khác trứng chúng ta phải chờ cho chúng lớn lên khi đó dựa vào yếu tố khác nhau
như màu mắt, vân tay v.v...hoặc chúng ta có thể xác định sớm hơn thông qua phân
tích di truyền.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
8
Chương II. Công nghệ hỗ trợ sinh sản
1. Khái niệm công nghệ hỗ trợ sinh sản (CNHTSS)
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh: Assisted Reproductive Technology A.R.T.)
bao gồm tất cả các phương pháp chữa trị chứng vô sinh trong đó cả trứng lẫn tinh trùng
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
9
đều được sử dụng. Nói chung ART là công tác phẫu thuật lấy trứng từ buồng trứng của
một người nữ, kết hợp với tinh trùng của một người nam, sao đó đem trở vào người nữ đó
hay một người nữ khác.
Những phương pháp giúp có thai đơn thuần hơn như bơm tinh trùng vào tử cung
(không trực tiếp động đến trứng) và kích thích tạo trứng (không trực tiếp lấy tinh trùng)
không được xếp vào lãnh vực của ART.
2. Sơ lược lịch sử phát triển CNHTSS [7]
Trên thế giới
Lần đầu tiên vào năm 1959, Chang thành công khi thực hiện tụ tinh nhân tạo giữa
trứng và tinh trùng thỏ trong môi trường ống nghiệm; từ đó tới nay, các nhà khoa học
không ngừng nghiên cứu tìm kiếm những phương pháp mới cho việc điều trị vô sinh ở
người. IVF và ICSI là những kỹ thuật nhằm làm tăng tỷ lệ thụ tinh trong điều trị hiếm
muộn đã được báo cáo thành công trên thế giới từ những năm 1978 và 1992, cho tới nay
đã có hơn một triệu em bé ra đời từ những kỹ thuật trên.
1978, em bé đầu tiên từ TTTON, Louis Brown, ra đời đánh dấu bước đầu cho sự
phát triển của TTTON trên người. Sau đó, 2 trường hợp sanh khác từ TTTON cũng đã
được báo cáo tại Anh. Sau đó, chương trình này tại Anh bị gián đoạn trong 2 năm.
1980, em bé TTTON thứ tư trên thế giới được sinh ra tại Úc. Trung tâm Monash ở
Úc được ghi nhận là nơi thứ hai trên thế giới thực hiện thành công TTTON. Trung tâm
này sau đó liên tục báo cáo các trường hợp sanh sau TTTON. Do trung tâm TTTON đầu
tiên ở Anh tạm ngưng hoạt động sau 3 trường hợp sanh đầu tiên, người ta ghi nhận rằng
12 trong số 15 em bé TTTON đầu tiên trên thế giới được ra đời từ trung tâm Monash ở
Úc.
1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời. Đây cũng là trường hợp TTTON đầu
tiên sử dụng gonadotropin để kích thích buồng trứng.
Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật TTTON đã phát triển rất mạnh và lần lượt được
báo cáo thành công tại nhiều nước trên thế giới, kể cả ở Châu Á. Trong đó, Singapore
được ghi nhận là nơi thực hiện thành công TTTON đầu tiên ở Châu Á vào năm 1983 bởi
nhóm nghiên cứu của SC Ng và cộng sự.
1984, kỹ thuật chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT) được báo cáo thành công tại
Mỹ.
1984, em bé đầu tiên ra đời từ trường hợp một phụ nữ không còn buồng trứng,
thực hiện xin trứng TTTON tại Úc.
1984, em bé đầu tiên sinh ra từ phôi người đông lạnh được báo cáo ở Úc bởi
Trounson và Mohr.
1986, Chen báo cáo trường hợp có thai từ trứng người sau động lạnh và rã đông tại
Úc. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công được báo cáo rất thấp.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
10
1988, trường hợp tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt (SUZI) được báo cáo
thành công lần đầu tiên tại Singapore bởi SC Ng và cộng sự.
1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) để hỗ trợ thụ tinh được giới thiệu
ở Mỹ bởi Cohen.
1992, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được báo cáo thành công lần
đầu tiên tại Bỉ bởi Palermo và cộng sự.
1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong ống nghiệm
(IVM) được báo cáo tại Úc.
1994, các trường hợp MESA-ICSI (hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu và tiêm
tinh trùng vào bào tương trứng) đầu tiên được báo cáo.
1995, kỹ thuật PESA-ICSI (chọc hút tinh trung từ mào tinh xuyên da và tiêm tinh
trùng vào bào tương trứng) được giới thiệu.
1995, kỹ thuật TESE-ICSI (phân lập tinh trùng từ tinh hoàn ở những trường hợp
giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) được báo cáo thành
công.
1997, trường hợp có thai ở phụ nữ 63 tuổi với kỹ thuật xin trứng TTTON được
báo cáo.
1997, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng trữ lạnh và rã đông của Mỹ được báo
cáo. 11 năm sau trường hợp đầu tiên trên thế giới được báo cáo.
2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng được báo cáo, cải thiện đáng kể tỷ lệ
thành công. Đồng thời, những trường hợp sanh đầu tiên từ cả trứng và tinh trùng đông
lạnh được báo cáo tại Ý.
Tại Việt Nam
Bắt đầu thực hiện TTTON từ năm 1997, đến năm 1998 có 3 em bé TTTON đầu
tiên tại Việt Nam ra đời và năm 1999 em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI, và cho tới
nay đã có 3438 em bé chào đời từ các kỹ thuật tại bệnh viện Từ Dũ, trong đó hầu hết cá
chu kỳ thực hiện đều có hỗ trợ cuả ICSI.
Sự phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại tại Việt Nam
Sự kiện Năm Nơi thực
hiện
Thế giới
Thực hiện thành công trữ lạnh tinh trùng người 1995 BV. Từ Dũ 1964
Thực hiện thành công kỹ thuật IUI với tinh trùng
lọc rửa
1995 BV. Từ Dũ cuối 1970
Thực hiện thành công kỹ thuật TTTON đầu tiên 1997 BV. Từ Dũ 1971
Các trường hợp TTTON đầu tiên ra đời 1998 BV. Từ Dũ 1978
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI 1999 BV. Từ Dũ 1993
Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng 2000 BV. Từ Dũ 1995
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
11
rec. FSH
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật cho trứng –
TTTON
2000 BV. Từ Dũ 1984
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TTTON – mang
thai hộ
2001 BV. Từ Dũ 1984
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật giảm thai sau
TTTON
2001 BV. Từ Dũ 1999 (*)
Thực hiện thành công trữ lạnh phôi người 2002 BV. Từ Dũ 1983
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật MESA – ICSI 2003 BV. Từ Dũ 1995
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật PESA – ICSI 2003 BV. Từ Dũ 1995
Em bé đầu tiên từ chu kỳ TTTON sử dụng GnRH
antagonist
2003 BV. Từ Dũ 1995
Em bé đầu tiên ra đời từ phôi đông lạnh 2003 BV. Từ Dũ 1984
Em bé TTTON thứ 1000 tại BV. Từ Dũ 2003 BV. Từ Dũ 1984
Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng
rec LH
2003 BV. Từ Dũ 1984
Thai lâm sàng đầu tiên từ cả trứng và TT người
đông lạnh
2003 BV. Từ Dũ 2001
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TESE – ICSI 2004 BV. Từ Dũ 1995
3. Kỹ thuật chuẩn bị giao tử [1,2]
3.1. Chuẩn bị trứng:
Năm 1978, trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới
thành công sau khi chuyển 1 phôi từ 1 trứng duy nhất chọc hút được từ chu kỳ tự
nhiên không kích thích. Tuy nhiên, những lần thụ tinh trong ống nghiệm sau được
lặp lại với chu kỳ tự nhiên cho kết quả thành công rất thấp, bởi lẽ với 1 trứng duy
nhất, nếu thụ tinh không xảy ra hoặc xảy ra thụ tinh nhưng phôi ngưng phát triển
do chất lượng trứng kém, bệnh nhân sẽ không có phôi để chuyển. Còn trong trường
hợp có 1 phôi để chuyển, tỉ lệ có thai của bệnh nhân cũng chỉ dao động quanh con
số từ 10 đến 15% - một tỉ lệ rất thấp cùng với chi phí cao và tốn nhiều thời gian.
Vì lẽ đó, để nâng khả năng thành công trong thụ tinh trong ống nghiệm, cần kích
thích buồng trứng để tạo ra nhiều nang trứng hơn, từ đó tăng số trứng chọc hút
được trong một chu kỳ điều trị, tăng số trứng có chất lượng tốt, tăng số phôi tạo
thành và số phôi tốt để chuyển, dẫn đến tăng tỉ lệ có thai. Số trứng mong đợi thu
được từ kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm là từ 10-12 trứng.
Đối với những trường hợp xin – cho trứng, việc kích thích buồng trứng càng trở
nên quan trọng hơn nhằm tăng tỉ lệ thành công và hạn chế việc người cho trứng bị
gây mê và chọc hút trứng nhiều lần.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
12
a. Thu nhận trứng
Các tác nhân được sử dụng để tối đa hóa sản xuất trứng bao gồm:
GnRH - Được sử dụng để ngăn chặn việc sản xuất tự nhiên của hormone kích
thích nang (FSH) và hormone luteinizing (LH) kích thích tố để kiểm soát chu
kỳ kinh nguyệt và cải thiện số lượng trứng được lấy ra.
Gonadotropin (FSH) - tổng hợp các hình thức của các hormon tuyến yên được
sử dụng để kích thích sự phát triển của nang trứng trong buồng trứng, nuôi
dưỡng trứng. Tăng trưởng nang lông là cần thiết trong quá trình kích thích để
sản xuất trứng khỏe mạnh.
Nhân Gonadoropin màng đệm (hCG) - Được sử dụng ở phần cuối của một chu
kỳ kích thích để kích thích sự trưởng thành cuối cùng của trứng. Trong khi các
loại thuốc này đôi khi được sử dụng để gây rụng trứng, khi được đưa ra trong
quá trình này, việc thu hồi trứng được hẹn giờ để cho phép những quả trứng
được thu thập trước khi rụng trứng xảy ra.
Trong quá trình sử dụng gonadotropins, nồng độ estrogen và progesterone
lưu thông trong máu đạt đến mức độ cao hơn bình thường. Trong một chu kỳ kích
thích điển hình, khoảng năm xét nghiệm máu sẽ được thu thập trong quá trình dùng
thuốc để theo dõi mứ