Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức lớn. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và khu vực, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia. Đồng hành với việc hội nhập kinh tế thì việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cũng là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định.
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3546 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khả năng ứng dụng ở Việt Nam, phân tích hệ thống các chính sách tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức lớn. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và khu vực, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia. Đồng hành với việc hội nhập kinh tế thì việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cũng là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc chuyển dịch kinh tế đối với sự phát triển của quốc gia, em đã chọn đề tài “Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khả năng ứng dụng ở Việt Nam. Phân tích hệ thống các chính sách tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”
Trong giới hạn bài viết này nhóm em đi vào nghiên cứu xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay cũng như những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực thời gian tới.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm và phân loại:
Cơ cấu kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản xuất mở rộng, đáp ứng các điều kiện: phù hợp với các điều kiện khách quan, phản ánh được khả năng khai thác sử dụng nguồn lực kinh tế trong nước và đáp ứng được yêu cầu hội nhập với quốc tế và khu vực, nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững. Đồng thời cơ cấu kinh tế hợp lý là phải phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới.
Khi phân tích cơ cấu kinh tế, ta xét trên hai phương diện:
- Phương diện thứ nhất, về mặt vật chất kỹ thuật, cơ cấu kinh tế bao gồm:
* Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
* Cơ cấu theo quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất phản ánh chất lượng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
* Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế- xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
- Phương diện thứ hai, xét cơ cấu kinh tế theo các mặt kinh tế xã hội, bao gồm:
* Cơ cấu theo các thành phần kinh tế, phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội.
* Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hóa tiền tệ. Nó phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
1.1.2. Tính chất.
- Tính chất khách quan: nền kinh tế có sự phân công lao động, có các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỉ lệ cân đối tương ứng với các bộ phận, tỉ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhưng không vì thế mà áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành những tỷ lệ và vị trí trái ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vội nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn, thường dẫn tới tai họa không nhỏ, bởi sai lầm về cơ cấu kinh tế là sai lầm chiến lược, khó khắc phục, hậu quả lâu dài.
- Tính chất lịch sử xã hội: Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị, xã hội của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được xác lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến của mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hóa xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc. Các nước có hình thái kinh tế- xã hội giống nhau, song có sự khác nhau trong hình thành cơ cấu kinh tế, vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm chiến lược mỗi nước khác nhau.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2.1. Khái niệm và phân loại:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển.
Căn cứ vào các loại hình cơ cấu kinh tế, ta có thể phân ra các hình thức chuyển dịch như sau:
* Chuyển dịch cơ cấu ngành: là quá trình phát triển của các ngành kinh tế, dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành kinh tế và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất của mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hòan thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ mới hiện đại và phù hợp hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mặt chất về kinh tế của quá trình phát triển. Đây là một quá trình diễn ra liên tục,gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và được xem là kết quả của quá trình công nghiệp hóa đối với các nước đang phát triển. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với sự phát triển chung của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái về phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình mang tính khách quan, dưới sự tác động của các yếu tố phát triển: lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, thị trường, quan hệ cung- cầu hàng hóa.
* Chuyển dịch cơ cấu vùng:
Là quá trình phát triển của các khu vực vùng lãnh thổ dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng và với tổng thể nền kinh tế so với một thời điểm trước đó.
Chuyển dịch cơ cấu vùng, một mặt phụ thuộc vào các nhân tố địa lý- chính trị, tài nguyên thiên nhiên…mặt khác, còn phụ thuộc vào sự tác động chủ quan của con người. Tác động của chuyển dịch cơ cấu vùng hầu như là mặt tích cực, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng giảm đi nhanh chóng, nhất là ở những nước đang phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật ở các vùng cải thiện đáng kể, dẫn đến cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Tuy nhiên quá trình này diễn ra cần một thời gian dài, mới có thể khắc phục được đối với các vùng đặc biệt khó khăn, xa xôi, miền núi, phương tiện giao thông khó khăn.
* Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Là quá trình phát triển thành phần kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế khác nhau giữa các thành phần và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng và với tổng thể nền kinh tế so với thời điểm trước đó.
Nếu sự chuyển dịch về cơ cấu thành phần kinh tế đi đúng hướng, sẽ hình thành nên một nền kinh tế nhiều thành phần sôi động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, sẽ dẫn đến sự yếu kém trong cạnh tranh, giảm sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
* Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội: Nhân tố thị trường và nhu cầu xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành, lĩnh vực, bộ phận trong tòan bộ nền kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu cầu nào thì tất nhiên sẽ không có bất kỳ một quá trình sản xuất nào. Cũng như vậy, không có thị trường tiêu dùng thì không có kinh tế hàng hóa. Thị trường và nhu cầu xã hội còn quy định chất lượng sản phẩm và dịch vụ, nên tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
* Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là động lực phát triển của xã hội. Nhu cầu xã hội là vô tận và mỗi ngày một cao. Muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội thì trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả năng sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao đọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghê, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động giản đơn thành lao động phức tạp, từ ngành này sang ngành khác. Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế với một vị trí, tỉ trọng các ngành và lĩnh vực phù hợp hơn, thích ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan và từng bước tạo ra sự cân đối hợp lý hơn, có khả năn khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài. Sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, nên cơ cấu kinh tế luôn luôn thay đổi, song sự biến đổi của cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp, không mang tính đột biến như chính sách, cơ chế quản lý.
* Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong mỗi giai đoạn nhất định: Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt những nội dung, mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan và lịch sử xã hội, nhưng các tính chất đó cảu cơ cấu kinh tế lại có sự tác động, chi phối của nhà nước. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, quy định các tỉ lệ của cơ cấu kinh tế, nhưng vẫn có sự tác động gián tiếp bằng cách định hướng phát triển, để thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu xã hội. Định hướng phát triển của nhà nước không chỉ nhằm khuyến khích mọi lực lượng sản xuất xã hội đạt mục tiêu đề ra, mà còn đưa ra các dự án để thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia, nếu không đạt được thì nhà nước phải trực tiếp tổ chức sản xuất, đảm bảo sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội là định hướng chung cho mọi thành phần, mọi nhà doanh nghiệp trong cả nước, phấn đầu thực hiện dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống luật pháp và các quy định, thể chế chính sách của nhà nước. Sự điều tiết của nhà nước gián tiếp dẫn dắt các ngành, lĩnh vực và thành phâầ kinh tế phát triển, đảm bảo tính cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
* Cơ chế quản lý ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Mọi sự hoạt động của nền kinh tế đều có sự điều tiết của nhà nước, song không phải nhà nước can thiệp trực tiếp vào qúa trình sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Nhà nước điều hành thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Những sản phẩm nào, ngành nào cần khuyến khích thì nhà nước giảm thuế, hoặc quy định thuế suất thấp để người sản xuất có lợi nhuận cao, còn đối với những ngành hàng cần hạn chế thì đánh thuế cao, người sản xuất thu được ít lợi nhuận, tất nhiên họ sẽ hạn chế đầu tư phát triển. Những ngành hàng hoặc lĩnh vực không ai muốn đầu tư sản xuất, nhưng sản phẩm của nó lại rất cần cho xã hội thì nhà nước tự đầu tư, tự tổ chức sản xuất. Nhà nước cũng có thể khuyến khích lao động chuyển đến các nơi có tài nguyên, có nhu cầu lao động thông qua các chính sách kinh tế, xã hội; ngược lại, muốn hạt chế di dân thì phải đầu tư phát triển các thị xã, thị trấn, thị tứ để có điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần tương đương như các đô thị lớn. Sự tác động của cơ chế quản lý sẽ thực hiện được cơ cấy sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra sự cân đối lực lượng lao động và thu nhập giữa các vùng và giảm bớt khoảng cách thành thị và nông thôn.
* Xu thế chính trị, xã hội trong khu vực và thế giới ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sự biến động về chính trị, xã hội của một nước hay một số nước, nhất là nước lớn, sẽ tác động mạnh đến các hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ…của các nước khác trên thế giới và khu vực. Do đó, thị trường và nguồn lực nước ngoài cũng thay đổi, buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế nước mình ổn định và phát triển.
* Xu thế toàn cầu hoá kinh tế, quốc tế hoá lực lượng sản xuất: Các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, sự bùng nổ thông tin, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất-kinh doanh nắm bắt thông tin, hiểu thị trường và hiểu đối tác mà mình muốn hợp tác. Từ đó giúp họ định hướng sản xuất, kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất, kinh doanh phù hợp với xu thế hợp tác đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau, cùng nhau phân chia lợi nhuận.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NƯỚC TA
2.1. Những thành tựu đạt được:
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hóa chính là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển để trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng này, chính là tăng nhanh tỷ trọng trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại- dịch vụ (gọi chung là thương mại), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Và điều tất yếu là đi cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại....Sau hơn 20 năm theo định hướng cơ bản trên, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật sau đây:
* Về cơ cấu ngành kinh tế: cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực.
Bảng 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế từ năm 1990- 2010:
Năm
1990
1995
2000
2005
2008
2009
2010
Nông nghiệp
38,1
27,2
24,5
20,9
22.1
20.91
20.3
Công nghiệp
22,7
28,8
36,7
41
39.7
40.24
41.1
Dịch vụ
38,6
44
38,7
38,1
38.2
38.85
38.6
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thông qua bảng số liệu ta có biểu đồ thể hiện cơ cấu ngành kinh tế từ năm 1990 – 2010:
Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu ngành kinh tế từ năm 1990 – 2010:
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo bảng số liệu 2.1 ta thấy, tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 tuy tỷ trọng này tăng lên đến 22,1% nhưng mà sang đến 2009 thì chỉ còn 20,91%, còn đến năm 2010 thì tiếp tục giảm xuống còn 20,3%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2010 là 41,1%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2010 là 38,6%. Nhìn vào tỷ trọng đóng góp của các ngành trong GDP ta đã thấy được sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu ngành kinh tế, từ một nước chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp giờ nước ta đã và đang trở thành một nước có nền kinh tế công nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Bảng 2.2. Sự thay đổi cơ cấu ngành và cơ cấu lao động từ 1990- 2008(%)
Năm
1990
1995
2000
2005
2008
2009
2010
GDP
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
KV I
38.7
27.2
24.5
21.0
22.1
20.91
20.3
KV II
22.7
28.8
36.7
41.0
39.7
40.24
41.1
KV III
38.6
44.1
38.7
38.0
38.2
38,85
38,6
Lao động
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
KV I
73.0
71.3
65.1
57.1
52.6
52.0
50
KV II
11.2
11.4
13.1
18.2
20.8
22.3
25.6
KV III
15.7
17.4
21.8
24.7
26.6
25.7
24.4
Nguồn: Tổng cục thống kê
* Về cơ cấu các thành phần kinh tế: Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Về cơ cấu vùng kinh tế: Trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước. Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
* Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu. Điều đó thể hiện ở chỗ, tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt khoảng 70%. Năm 2009, tỷ lệ này là 75,6% và đến năm 2010 là 85,9%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như