Hội chứng còi cọc trên heo sau cai sữa PMWS (post weaning multisystemic 
syndrome) được ghi nhận lần đầu tiên trên một đàn heo ởCanada vào năm 1991. 
Trên đàn heo này, một sốheo sau cai sữa khoảng 2 tuần bắt đầu có biểu hiện còi 
cọc và bắt đầu không có đáp ứng tốt với việc điều trị. Sau đó, một sốtrường hợp 
được ghi nhận ởMỹrồi đến các nước châu Âu. Cho đến năm nay, bệnh đã được 
phát hiện trên nhiều đàn heo ởMỹ, nhiều nước Châu Âu và một sốnước châu Á 
và gây thiệt hại kinh tếrất lớn trong ngành chăn nuôi heo công nghiệp ởnhững 
nước này. Hội chứng PMWS thường xuất hiện ởheo lứa tuổi từ6 đến 18 tuần, tỷ
lệchết có thểdao động từ1-2% đến 10-25% ởmột số đàn heo. Bệnh xuất hiện với 
một sốtriệu chứng điển hình nhưgầy còm nhanh, thởkhó, tiêu chảy, thỉnh thoảng 
có một sốheo bịvàng da, nhạt màu PMWS thường hay kết hợp với virus gây 
hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo ( porcine reproductive respiratory 
syndrome virus- parasuis, PRRSV), virus cúm heo ( porcine parvovirrus-PPV), 
Haemophilus Actinobacillus pleuropneumoniae, Streptococcus suitvà 
Mycoplasma hyoppneumonia.
1997 nhóm nghiên cứu thuộc đại học Saskatchewan (Clark, Ellis, Harding, 
West) đã phân lập PCV2 từnhững ca PMWS. Từ đó, người ta đã thực hiện thành 
công thí nghiệm gây nhiễm PCV2 trên heo.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2593 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chẩn đoán virus pmws (procine multisystemic wasting syndrom) bằng kỹ thuật gene, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Trường Đại Học Nông Lâm TPHCM 
Bộ môn Công nghệ sinh học 
Lớp DH06SH 
Báo cáo tiểu luận môn Công nghệ sinh học trong thú y 
CHẨN ĐOÁN VIRUS PMWS (PROCINE MULTISYSTEMIC 
WASTING SYNDROM) BẰNG KỸ THUẬT GENE 
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HẢI 
Người thực hiện: NGUYỄN HOÀNG NGÂN 
Mã sinh viên: 06126086 
 2 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Hội chứng còi cọc trên heo sau cai sữa PMWS (post weaning multisystemic 
syndrome) được ghi nhận lần đầu tiên trên một đàn heo ở Canada vào năm 1991. 
Trên đàn heo này, một số heo sau cai sữa khoảng 2 tuần bắt đầu có biểu hiện còi 
cọc và bắt đầu không có đáp ứng tốt với việc điều trị. Sau đó, một số trường hợp 
được ghi nhận ở Mỹ rồi đến các nước châu Âu. Cho đến năm nay, bệnh đã được 
phát hiện trên nhiều đàn heo ở Mỹ, nhiều nước Châu Âu và một số nước châu Á 
và gây thiệt hại kinh tế rất lớn trong ngành chăn nuôi heo công nghiệp ở những 
nước này. Hội chứng PMWS thường xuất hiện ở heo lứa tuổi từ 6 đến 18 tuần, tỷ 
lệ chết có thể dao động từ 1-2% đến 10-25% ở một số đàn heo. Bệnh xuất hiện với 
một số triệu chứng điển hình như gầy còm nhanh, thở khó, tiêu chảy, thỉnh thoảng 
có một số heo bị vàng da, nhạt màu… PMWS thường hay kết hợp với virus gây 
hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo ( porcine reproductive respiratory 
syndrome virus- parasuis, PRRSV), virus cúm heo ( porcine parvovirrus-PPV), 
Haemophilus Actinobacillus pleuropneumoniae, Streptococcus suit và 
Mycoplasma hyoppneumonia. 
 1997 nhóm nghiên cứu thuộc đại học Saskatchewan (Clark, Ellis, Harding, 
West) đã phân lập PCV2 từ những ca PMWS. Từ đó, người ta đã thực hiện thành 
công thí nghiệm gây nhiễm PCV2 trên heo. 
 Báo cáo của Neumann và ctv (2002) cho biết những mẫu huyết thanh heo tại Mỹ 
lưu trữ từ năm 1969 khi đem xét nghiệm tìm kháng thể kháng virus PVC2 đã cho 
kết quả dương tính. Phương pháp hồi cứu những mẫu mô và huyết thanh lưu trữ 
bằng kỹ thuật mô hóa miễn dịch và lai trong mô cho thấy PVC2 từng lưu hành tại 
châu Âu vào những năm 1970 như không có tài liệu nào ghi nhận về bệnh do 
PVC2 gây ra vào thời điểm đó ( Tucker và ctv, 2006). 
 3 
II. TỔNG QUAN 
1. Tác nhân gây bệnh: 
• Circovirus thuộc họ virus có DNA mạch vòng, không có vỏ bao và chứa 
một bộ gen vòng đơn. 
• Dựa vào đó, tổ chức quốc tế về phân loại virus xếp chúng vào một họ mới 
của những DNA virus gọi là Circovitidae, giống Circovirus (Lukertvaf 
cộng sự,1995). 
• PVC có trọng lượng trong CsCl là 1.33-1.34 (Buhk và ctv, 1985) 
• Là loại virus nhỏ nhất được biết đến và có khả năng sống sót cao trong môi 
trường. 
 4 
• Gồm có 2 tuyp được tìm thấy ở heo, bao gồm type 1 (PVC1) và type 2 
(PVC2) 
• Bộ gen DNA của PCV1 gồm 1759bp và của PCV2 là 1768bp (Meehan và 
ctv,1997). 
• Bộ gen của PVC gồm 6 khung đọc mở (open reading frame – ORFs), ORF1 
mã hóa cho protein tham gia vào quá trình nhân lên của virus và ORF2 mã 
hóa cho các gen cấu trúc của virus. 
• Trên heo hiện có hai loại PVC: PVC1 và PVC2 với bộ nhiễm sắc thể tương 
đồng khoảng 68-78%, trong đó ORF tương đồng khoảng 83% về trình tự 
nucleotide và 86% acid amin. PVC1 được xem như là virus nhiễm thường 
xuyên và tự nhiên trên tế bào thận heo PK15 và là virus không gây bệnh. 
Ngược lại, PVC2 được xem như là tác nhân gây PMWS. 
• PVC nhân lên tốt nhất trong môi trường tế bào PK/15. Sự nhân lên của 
virus có thể đánh giá bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang hoặc nhuộm 
miễn dịch peroxidase đối với hầu hết tế bào bị nhiễm PVC. Bằng kỹ thuật 
nhuộm nhân tập trung, thỉnh thoảng trên heo bị PMWS, bệnh tích thể bao 
hàm ưa kiềm trong tế bào chất của một số tế bào nhiễm PCV2 cũng được 
tìm thấy ( Clark,1997,Harding,1997,Allan và ctv,1999). 
a/ Circovirus type 1 (PVC-1): 
• Năm 1974, các nhà khoa học đã phân lập được Circovirus type 1 từ tế bào 
thận heo. 
• Hiện nay, chúng không gây bệnh cho heo. 
b/ Circovirus type 2 (PVC-2): 
 5 
Figure 2. Morphology and genomic organisation of PCV2. A. The PCV2-virion 
consists of a capsid without envelope. B. The genome of PCV2 is a single stranded 
circular DNA molecule with a stem loop structure. C. A highly conserved 
nonanucleotide sequence is located on the top of the stem loop structure. Close to 
the stem loop structure the ORF2 starts on the viral strand coding for the capsid 
protein, in the other direction, on the complementary strand, starts ORF1 that 
codes for the Rep protein. 
 6 
Figure3. Porcine circovirus type 2 (PCV2) with fine outer capsid 
• Được ghi nhận đầu tiên vào 1991 tại Tây Canada, phát hiện ở vết thương. 
• Bao gồm nhiều chủng khác nhau (kiểu sinh học và kiểu gen). Kháng thể 
trên PVC-2 đã được phát hiện ở huyết thanh heo nuôi tại Bỉ năm 1985. 
• Từ những kinh nghiệm nghiên cứu ban đầu cho thấy, khi gây nhiễm virus 
type 2 lên heo, heo sẽ biểu hiện những tổn thương đặc trưng của bệnh. Tuy 
nhiên, nếu một loại virus khác như Parvovirus heo (PPV) hay PRRSV được 
tiêm vào cùng một lúc thì heo cũng mang những biểu hiện tương tự. Những 
nguyên nhân gây ra bệnh thường là do nhiễm PCV type 2 hay một vài loại 
virus khác nhưng không phải tất cả heo bị nhiễm PCV và PPRS không có 
biểu hiện bệnh lý PMWS. 
• Những nghiên cứu về huyết thanh tại Châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, sự lây 
nhiễm lan rộng trong đàn heo nhưng chỉ một phần nhỏ đàn có huyết thanh 
 7 
dương tính là từng biểu hiện bệnh lý. Điều này có vẻ như hầu hết những ca 
lây nhiễm có biểu hiện ngầm với bệnh. Heo con có thể bị nhiễm trước khi 
cai sữa. 
• Sức đề kháng: PCV2 đề kháng cao với nhiều chất sát trùng ( ethanol, 
chlohexidine, iodine và formaldehyde), có thể tồn tại trong môi trường suốt 
nhiều tháng, chịu đụng sức nóng 70oC/15’ và không bị vô hoạt ở pH=3. 
Virus có thể được phân lập từ các mô lưu trữ ở -70oC trong nhiều tháng 
(Ellis và ctv,1998). Sodiumhydroxide và Virkon S với độ pha loãng 1% có 
hiệu quả nhất trong việc bất hoạt PCV2 (Royer và ctv, 2001). 
• Bằng thực nghiệm, người ta ghi nhận PCV2 có thể lây truyền ngang dọc, 
theo các đường hô hấp, đường máu, nhau thai và sinh dục. 
• Virus tồn tại trong những heo mang trùng từ 5-6 tháng. Phân, nước tiểu, 
máu, dịch tiết ở mũi của những heo còn nhỏ bị nhiễm PVC2cos chứa acid 
nucleic của PCV2 và những phương tiện lan truyền virus trong đàn. 
• Thực nghiệm, gây nhiễm PCV2 cho heo nuôi thí nghiệm lúc một ngày tuổi, 
Krakowka và ctv (2001)đã phát hiện acid nucleic của PCV2 có trong phân, 
nước tiểu, nước mắt của héo sau 31 ngày gây nhiễm. 
• Ngoài ra, PCV2 cũng được tìm thấy trong tinh dịch của những heo đực 
nhiễm bệnh và sẽ lây truyền virus qua giao phối (Kim và ctv,2001). 
• Lây truyền dọc cũng được ghi nhận. Sự chết của bào thai và sẩy thai có liên 
quan đến sự nhiễm bệnh qua đường sinh dục (Bogdan và ctv,2001). 
2. Cách gây bệnh. 
 Cơ chế gây bệnh của PCV2 trên heo đến nay chưa được biết rõ. Tuy nhiên, 
qua phương pháp lây nhiễm trên heo sống, Misinzo và ctv (2006) đã phát hiện 
PCV2 có trong nhiều loại tế bào như tế bào gan, biểu mô, nội mô, lympho bào, 
tế bào cơ trơn và nguyên sợi bào. Krakowka và ctv (2001) gây nhiễm qua 
đường mũi hay tiêm tĩnh mạch của heo thí nghiệm, các tác giả nhận thấy có sự 
 8 
hiện diện của bạch cầu đơn nhân và đại thực bào trong phổi, hạch hạnh nhân, 
hạch lympho, lách và những cơ quan khác trong hệ thống miễn dịch; còn tại 
phổi, gan, thận, dạ dày-ruột và lách khoảng ngày 14-21sau gây nhiễm. Tình 
trạng nhiễm virus huyết xuất hiện lúc 14 ngày sau khi nhiễm và kéo dài 2-4 
tuần. Sau khi gây nhiễm 21 ngày, phổi của thú có nhiều vùng bị xẹp và mất 
chức năng, hạch lympho sưng lớn và chuyển sang màu nâu 
Đối với hệ thống miễn dịch, PCV2 tấn công vào tế bào đích là các tế bào hình 
sao và tương tác với các tế bào dòng tủy (tế bào lympho B, lympho T, tế bào 
NK ngoại trừ tế bào bạch cầu đơn nhân lớn) làm giảm tế bào lympho tại hạch 
hạnh nhân và hạch lympho để lại bệnh tích vi thể rất đặc trưng. Mức độ cấp 
tính của bệnh tích vi thể và số lượng PCV2 trong bệnh tích liên quan chặc chẽ 
với mức độ nghiêm trọng của biểu hiện lâm sàng. PCV2 có thể làm hư hại hệ 
thống miễn dịch bằng cách ức chế miễn dịch. 
Ngoài ra, virus PCV2 còn tác dụng làm giảm tiểu cầu nghiêm trọng gây xuất 
huyết mô kéo dài. Sự tấn công của virus vào gan khởi đầu làm cho các tế bào 
gan, tế bào Kupffer, tế bào nội mô bị sưng và triễn dưỡng nên gan to ra. Sau 
đó, các tế bào này sẽ bị dung giải nên giảm số lượng và kích thướt tế bào gan 
teo lại, đồng thời mật có thể ứ lại trong các ống mật khiến gan trở nên vàng. 
3.Nguyên nhân lây nhiễm. 
• Nhiễm từ tinh dịch heo bệnh, phân, phương tiện, vật dụng (quần áo, xe 
đẩy,…) hay từ những loài khác (Chuột, Chim,…) 
• Tiếp xúc giữa heo bệnh với heo khỏe mạnh. 
• Do Stress (trong quá trình vận chuyển, thay đổi môi trường, thay đổi 
chuồng trại,… 
• Do nhập nhiều heo với các độ tuổi khác nhau và chăn nuôi với mật độ dày 
đặc. 
 9 
• Do thú sản xuất liên tục. 
4. Triệu chứng 
a. Heo cai sữa và heo trưởng thành 
• Sốt 41 - 42 oC, đột tử, có thể xuất hiện những triệu chứng thần kinh. 
• Sụt cân, hốc hác, lông thô ráp, da tái nhợt, đôi khi bị vàng da, chậm phát 
triển (giai đoạn 6-8 tuần tuổi) và tai bị đổi màu. 
• Một số trường hợp, bệnh thường kèm với một số triệu chứng về hô hấp 
(khó thở do viêm phổi) và tiêu hóa (30% trường hợp bị tiêu chảy và loét dạ 
dày. 
• Ngoại vi hạch bạch huyết sưng to, đặc biệt là giữa hai chân sau của heo. 
Nếu ta dựng đỡ heo lên thì có thể thấy hạch bẹn có kích cỡ lớn như một quả 
banh golf. 
• Thường phát hiện triệu chứng viêm da suy thận (PDNS) trong những đàn bị 
PMWS. 
• Tỉ lệ heo cai sữa chết khoảng từ 6-10% nhưng thông thường cao hơn 
(20%). Tỉ lệ chết ở heo lớn hơn có thể lên đến 10%. 
• Những ca bệnh có thể kéo dài trong một đàn nhiều tháng. Chúng thường 
đạt đến đỉnh điểm sau 6-12 tháng và sau đó giảm từ từ. 
b. Heo nái và heo con: 
• Những con heo trưởng thành, heo nái và heo con không bị ảnh hưởng. 
• Hiếm khi một con heo mới thôi bú bị ảnh hưởng bệnh cho đến khi nó được 
6 tuần tuổi. 
• Đôi khi những triệu chứng xảy ra tương tự như trên nhưng là do thú bị suy 
sinh dưỡng, thiếu nước, loét dạ dày, viêm ruột non do trực khuẩn, bệnh lý, 
PRRS và những bệnh khác… Lúc đó, chúng ta phải biết loại trừ nếu bệnh 
xảy ra cùng lúc hay theo sau PMWS. Mối quan hệ của hệ bệnh này không 
 10 
được hiểu rõ nhưng mỗi bệnh có thể xuất hiện trong các đàn mà không cần 
có bệnh kia. 
5. Bệnh tích: Mổ khám tử thi 
• Xác súc vật bị gầy và da vàng. 
• Lách và nhiều hạch bạch huyết sưng to. Tuy nhiên, vẫn phải đặt nghi vấn 
trong những trường hợp hình ảnh tuyến bạch huyết sưng to. 
• Thân bị sưng phồng với những đốm trắng nhỏ có thể quan sát bằng mắt từ 
bề mặt. 
• Phổi thường dính, có đốm phù nề, có vằn và dai 
• Ngực, mô và cơ quan ổ bụng bị phù nề hay úng nước. 
6. Giới thiệu phương pháp PCR 
a. Nguyên tắc chung 
Thành phần cơ bản cho phản ứng PCR bao gồm: DNA bản mẫu, mồi xuôi, mồi 
ngược, dNTP (dATP, dCTP, dTTP, dGTP), dung dịch đệm cho phản ứng PCR, 
MgCl2, Tap polymerase. 
Tất cả các DNA polymerase khi hoạt động tổng hợp một mạch DNA mới từ mạch 
khuôn đều cần sự hiện diện của những mồi chuyên biệt. Mồi là những 
oligonucleotide có khả năng bắt cặp bổ sung với một đầu 3’của mạch khuôn. DNA 
polymerase sẽ nối dài mồi để hình thành mạch mới. Mồi xuôi (forward primer: F) 
tác động lên sợi DNA theo chiều từ 3’->5’. Mồi ngược (Reverse primer: R) tác 
đọng theo chiều từ 5’->3’. Phản ứng PCR sẽ nhân bản trình tự nằm giữa hai đoạn 
mới này. 
Phản ứng PCR cho phép khuếch đại từ một DNA ban đầu thành một số lượng lớn 
DNA và được thực hiện nhờ enzyme DNA polymerase không cần đến sự hiện diện 
của tế bào. Kỹ thuật này được thực hiện trên cơ sở phản ứng sinh tổng hợp DNA 
theo ba giai đoạn sau: 
 11 
• Giai đoạn biến tính: ở nhiệt độ 92-95oC, hai chuỗi DNA được tách ra 
để làm khuôn mẫu để tổng hợp mới hai mạch bổ sung; giai đoạn ủ để lai phân tử 
(hybridization), hai mồi bắt cặp bổ sung với mạch khuôn của DNA ở hai đầu 
nhằm chuẩn bị cho sự kéo dài; giai đoạn kéo dài (elongation) tạo thành chuỗi 
DNA bổ sung với chuỗi DNA gốc. 
 Mỗi chu kỳ gồm ba bước trên sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần, lượng DNA được nhân 
lên theo cấp số nhân. Ba giai đoạn xảy ra trong điều kiện nhiệt độ khác nhau nên 
cần phải có máy luân nhiệt kiểm soát phản ứng với tính tự động hóa một cách 
chính xác. Sự lặp lại theo chu kỳ thường xảy ra khoảng 30 lần để làm tăng hoạt 
một gen thành một khối lương lớn hơn rất nhiều lần so với khối lượng DNA ban 
đầu. 
b. Ứng dụng PCR trong nghiên cứu PCV2 
 Kỹ thuật PCR lần đầu tiên được ứng dụng để phát hiện PCV2 trong mô được 
báo cáo vào năm 1997 bởi Narar và ctv. 
Trên thế giới, nhiều tác giả đã ứng dụng kỹ thuật PCR để tìm hiểu đặc tình của 
PCV2 trong những đàn có hoặc không có hội chứng PMWS như Allan và ctv 
(1998), Harmel (1998), Calsamiglia (2001), Kim (2002), Segales và Morvan 
(2002)… 
 Trong chuẩn đoán những bệnh liên quan với PCV2, các tác giả (Mori và 
ctv,2000; Lyoo và Park, 2001; Royer và ctv, 2001) đều nhận định kỹ thuật PCR là 
rất nhạy và đặc hiệu trong chuẩn đoán xác định PCV2. 
Nghiên cứu về PCV2 bằng phương pháp xét nghiệm khác nhau, Stevenson (2000) 
nhận định kỹ thuật PCR là nhạy nhất, kế đến là kỹ thuật lai trong mô và thấp nhất 
là kỹ thuật phân lập virus. Quardani và ctv (1999) cho biết độ nhạy của kỹ thuật 
PCR trong phát hiện PCV2 có thể đạt đến 5pg DNA của virus. 
7.Chuẩn đoán PMWS virus 
A. Giới thiệu chung về các phương pháp chuẩn đoán PMWS virus 
 Trong chuẩn đoán xác định nguyên nhân gây ra PMWS cần phải sử dụng các kỹ 
thuật thể hiện liên quan trực tiếp giữa virus và bệnh tích mô, chính vì tế kỹ thuật 
 12 
hóa mô miễn dịch, lai tại chỗ… được khuyến cáo áp dụng nhiều hơn so với kỹ 
thuật PCR hoặc phân lập virus đơn thuần. Việc phát hiện PVC2 chỉ cho phép kết 
luận thú bị nhiễm PVC2 nhưng không thể kết luận thú bị PMWS. DNA hoặc 
kháng nguyên của PVC2 có thể phát hiện bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch, lai tại 
chỗ trong đại thực bào của nhiều loại mô bệnh. Do đó sự khác biệt về gen của 
ORF2 nhiều hơn so với ORF1 nên các đoạn dò thường được thiết kế dựa trên sự 
khác biệt gen của ORF2 nhằm chuẩn đoán phân biệt PCV1 và PCV2. 
 Muirhead (2002) cho rằng để chuẩn đoán chính xác PMWS cần dựa trên 3 tiêu 
chí: biểu hiện lâm sàng, bệnh tích đặc trưng và xét nghiệm chứng minh acid 
nucleotide hoặc kháng nguyên của PCV2 liên quan đến bệnh tích đặc trưng. 
• Những biểu hiện lâm sàng: tuổi mắc bệnh thường từ 6-14 tuần có khi 
lên đến 20 tuần, còi cọc, giảm tăng trọng, chậm lớn, chết đột ngột, có thể đi kèm 
với chứng thở khó hoặc hoàng đảng. 
 Chuẩn đoán phân biệt heo bệnh do PCV2 so với những nguyên nhân khác 
cũng làm heo còi, suy nhược như suy dinh dưỡng, thiếu ăn, thiếu nước, loét dạ 
dày, viêm phổi địa phương, viêm ruột do E.coli, bệnh hồng lỵ trên heo, hội chứng 
PRRS, PDNS (Pemek và ctv,2002). 
• Bệnh tích mổ khám: tích nhiều dịch trong các xoang suy thoái các tổ 
chức lympho, hạch lympho sưng lớn và viêm nhiễm tại các cơ quan khác. 
• Những xét nghiệm tại phòng thí nghiệm: 
 Bệnh tích vi thể: thể bao hàm ưa kiềm, nang lympho thoái triễn, mô 
bệnh tiến triển từ viêm mô lympho đến u hạt trong cơ quan (chủ yếu phổi và hạch 
lympho). 
 Phương phát huyết thanh học: giúp đánh giá tình trạng nhiễm PCV2 trong đàn. 
Kháng thể có thể được phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh tế bào một 
quang gián tiếp (IFA), xét nghiệm miễn dịch peroxidase gián tiếp trên tế bào một 
lớp (IPMA) hoặc Elisa. Trong đó, phương pháp Elisa cạnh tranh hiện được chọn 
để phát hiện PCV2 trong mọi tình huống với PCV2 là kháng nguyên và tác nhân 
 13 
phản ứng cạnh tranh là kháng thể đơn dòng đặc hiệu PCV2. Kỹ thuật Elisa cạnh 
tranh có độ nhạy đến 99.5% và độ đặc hiệu cũng khá cao 97.1 (Walker và ctv, 
2000). 
 Hóa mô miễn dịch tế bào ( ICC_ immunocytochemitry) và kỷ 
thuật lai trong mô (ISH_insitu hybridisation): cả hai phương pháp được dùng 
để phát hiện kháng nguyên PCV2 trong các mô của những ca PMWS. Hầu hết các 
nghiên cứu về PMWS hoặc PCV2 đều sử dụng một hoặc cả hai kỹ thuật này. 
Trong đó, kỹ thuật ICC nhạy hơn rất nhiều so với kỹ thuật ISH (Neilly và 
ctv,1999). 
Phân lập virus: phương pháp này liên quan đến việc nuôi cấy trên môi trường tế 
bào PK_15 được ly trích từ những mô của mô không lây nhiễm PCV1, nhưng cách 
này mất nhiều ngày và không nhạy so với kỹ thuật ICC và ISH (Sorden,2000). Về 
cơ bản, phân lập virus chủ yếu phục vụ cho việc bào chế vaccine và định type 
virus. Người ta không ứng dụng nó vào mục đích chuẩn đoán hoặc chứng minh sự 
có mặt của PCV2 hay hội chứng PMWS trong đàn. 
 Kỹ thuật PCR: có độ chính xác cao và ít tốn thời gian nên hiện nay 
được úng dụng trong chuẩn đoán phân biệt giữa PCV1 và PCV2. Trong đó, kỷ 
thuật PCR nhiều mồi (multiplex PCR assays) hiện được sử dụng rộng rãi để phát 
hiện những chủng PCV2 phân lập từ những ca khác nhau. So với nhiều phương 
pháp khác lợi thế của phương pháp PCR là có thể ứng dụng để xét nghiệm cho 
nhiều loại mẫu khác nhau như huyết thanh, mẫu mô tươi hoặc đong lạnh và cả 
những mẫu tinh dịch. Do có độ nhạy cao nên kỹ thuật PCR đòi hỏi phòng thí 
nghiệm phải hiện đại và kỹ thuật viên thao tác tốt. 
B.Sử dụng phương pháp PCR để chuẩn đoán. 
 a. Bước đầu ghi nhận sự hiện diện của Porcine circovlrus type 2 trên heo 
biểu hiện còi tại một số trại heo công nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh và vùng lân 
cận. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
 14 
Mẫu: bạch huyết của những heo có dấu hiệu còi cọc sau cai sữa, lứa tuổi từ 6 đến 
18 tuần, nuôi tại một số trại heo công nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh và một số 
tỉnh lân cận. Sử dụng phương pháp PCR để phát hiện sự hiện diện của virus PCV2 
trong mô. 
Ly trích DNA của virus PCV2 theo mô tả của Lyoo K, và cộng sự (2001). Chạy 
phản ứng PCR theo mô tả của Harm và cộng sự (2001). 
Bộ primer sử dụng đặc hiệu cho sản phẩm với kích thướt 702bp. Các thành phần 
cho một phản ứng chạy PCR chứa 50 μl dung dịch hỗn hợp bao gồm: 1 μl dung 
dịch MgCl2 15mM, 0.4 μl dNTPs, 10pmol mỗi đoạn mồi, 1 U Tap DNA 
polymerase và 3 μl dung dịch nẫu ly trích DNA, sau đó cho thêm nước để đạt thể 
tích 50 μl. Hỗn hợp chạy PCR với thông số theo như mô tả của sản phẩm này. Sản 
phẩm PCR được phân tích ở nồng độ agar 0.8%. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Trong 25 mẫu bạch huyết được thu thập và xét nghiệm để thăm dò sự hiện diện 
của PCV type 2 bằng phương pháp PCR, chúng tôi phát hiện được 9 mẫu dương 
tính với virus này chiếm tỷ lệ 36%. Tỷ lệ mẫu dương tính tại các trại được thu thập 
mẫu như sau: 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỶ THUẬT 
Bảng 1: tỷ lệ dương tính với PCV type 2 tại các trại được khảo sát: 
Trại/chỉ tiêu theo 
dõi 
1 2 3 4 
Số mẫu theo dõi 4 5 6 10 
Số mẫu khảo sát 1 0 2 6 
Tỷ lệ % 25,00 0,00 33,33 60,00 
Tỷ lệ dương tính đối với PCV2 trên heo còi tại các trại biến động rất lớn, từ không 
nhiễm đến 60%. Điều này xảy ra do điều kiện vệ sinh chăm sóc, nguồn gốc heo, 
 15 
việc xuất nhập heo ở mỗi trại khác nhau. Hội chứng còi cọc sau cai sữa do PCV2 
được mô tả là có thể xuất hiện ở bất kỳ dạng trại chăn nuôi nào, từ trại nuôi heo 
thịt đến trại nuôi heo giống, cũng như không phụ thuộc vào quy mô chăn nuôi, từ 
trại có 30 heo nái đến trại có 10.000 nái. 
Dewey C, (2000) đã thực hiện thí nghiệm để tìm ra nguyên nhân gây hội chứng 
còi trên heo sau cai sữa và ông đã rút ra kết luận rằng vấn đề vệ sinh chăm sóc và 
điều kiện địa lý cũng như mật độ chăn nuôi có ảnh hưởng chủ yếu trong việc phát 
tán mầm bệnh gây ra hội chứng này. 
Bảng 2. Tỷ lệ mẫu dương tính với PCV type 2 tại các trại được khảo sát. 
Nhóm tuổi(tuần)/ 
Chỉ tiêu theo dõi 
6-8 9-11 12-18 
Số mẫu khảo sát 8 10 7 
Số mẫu dương tính 3 4 2 
Tỷ lệ % 37,55 40,00 28,57 
Kết quả cho thấy có thể phát hiện được virus PCV2 ở bất cứ nhóm tuổi heo nào có 
biểu hiện còi. 
Bảng 3. Sự phân bố virus PCV2 trên 3 loại hạch bạch huyết của heo có biểu hiện 
còi. 
Vị trí hạch/chỉ tiêu 
theo dõi 
Hạch bẹn cạn Hạch phổi Hạch ruột