Tiểu luận Chính sách đối ngoại Việt Nam- Asean giai đoạn 1986-1991

Chiến thắng vĩ đại ngày 30/04/1975 đã đánh dấu một trang lịch sử mới của toàn dân tộc Việt Nam. Đất nước và con người Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ách đế quốc thực dân, bước vào con đường xây dựng tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa trong thời kỳ mới. “Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập, tự do!”( Trích Diễn văn của đồng chí Lê Duẩn trong buổi lễ mừng chiến thắng – ngày 15/05/1975). Tuy nhiên, cũng chính từ chiến thắng đó đã làm lu mờ những khó khăn mà dân tộc đang phải đối mặt làm cho các chính sách của Đảng và nhà nước không sát thực tế và hậu quả là Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong chính sách đối ngoại, bị các nước cô lập. Cho mãi đến năm 1986, Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI đã mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, vạch ra được con đường đúng đắn để đưa cách mạng từng bước vượt qua khó khăn thử thách, tháo gỡ những bao vây cô lập từ bên ngoài. Đồng thời bất đầu từ giữa thập niên 80, những biến động của tình hình thế giới phát triển nhanh hơn, dồn dập hơn đã dẫn tới những đảo lộn lớn trong bàn cờ chính trị thế giới vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Việc xác định gia nhập asean đầu tiên ngay trong đổi mới tư duy thì Việt Nam đã xác định được việc đặt bước chân đầu tiên trên con đường đi tìm vị trí và chỗ đứng mới cho bản thân. Đây được đánh giá là một trong những quyết định đứng đắn nhất của Việt Nam trong thập niên 80-90. Vì vậy mục đích lựa chọn giai đoạn này là nhằm đánh giá chính sách đối ngoại đổi mới trong giai đoạn từ 1986 đến 1991. Muốn đi sâu và phân tích sâu hơn về việc tại sao Việt Nam lựa chọn ASEAN làm bước tiến mới trong việc đổi mới tư duy đối ngoại.Vì nhiều lý do bài viết có thể có những sơ suất, rất mong cô và các bạn góp ý thêm để bài viết hoàn thiện hơn.

doc20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3808 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách đối ngoại Việt Nam- Asean giai đoạn 1986-1991, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO TIỂU LUẬN (Môn: Chính Sách Đối Ngoại Chuyên Sâu III) Đề tài: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM- ASEAN GIAI ĐOẠN 1986-1991 Giáo viên hướng dẫn: Cô Nguyễn Phú Tân Hương Nguyễn Thị Tố Tâm Lớp: Ct36h Hà Nội, tháng 11 năm 2011 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG HÌNH THÀNH NÊN ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM II.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM 1986-1991: SỰ ĐỘT PHÁ TRONG 10 NĂM GIẢI PHÓNG 1.Tình hình quốc tế và khu vực 1.1.Tình hình quốc tế 1.1.2.Tình hình khu vực 1.1.2.3. Đổi mới tư duy đối ngoại 2.Triển khai chính sách đối ngoại 1986-1991: Ngoại giao giải quyết vấn đề bức xúc của đất nước…………………………………………………………… 2.1. Giải quyết vấn đề Campuchia và khai thông quan hệ các nước asean: 2.2. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc: ……………………….. 2.3. Bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ: Vấn đề được cần được giải quyết…………………………………………………………………………… 2.4. Quan hệ với Nga và các nước Đông Âu: Mối quan hệ truyền thống ………………………………………………………………………. 2.5. Hợp tác với các tổ chức đa phương ……………………………….. III. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI NÓI ĐẦU Chiến thắng vĩ đại ngày 30/04/1975 đã đánh dấu một trang lịch sử mới của toàn dân tộc Việt Nam. Đất nước và con người Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ách đế quốc thực dân, bước vào con đường xây dựng tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa trong thời kỳ mới. “Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập, tự do!”( Trích Diễn văn của đồng chí Lê Duẩn trong buổi lễ mừng chiến thắng – ngày 15/05/1975). Tuy nhiên, cũng chính từ chiến thắng đó đã làm lu mờ những khó khăn mà dân tộc đang phải đối mặt làm cho các chính sách của Đảng và nhà nước không sát thực tế và hậu quả là Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong chính sách đối ngoại, bị các nước cô lập. Cho mãi đến năm 1986, Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI đã mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, vạch ra được con đường đúng đắn để đưa cách mạng từng bước vượt qua khó khăn thử thách, tháo gỡ những bao vây cô lập từ bên ngoài. Đồng thời bất đầu từ giữa thập niên 80, những biến động của tình hình thế giới phát triển nhanh hơn, dồn dập hơn đã dẫn tới những đảo lộn lớn trong bàn cờ chính trị thế giới vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Việc xác định gia nhập asean đầu tiên ngay trong đổi mới tư duy thì Việt Nam đã xác định được việc đặt bước chân đầu tiên trên con đường đi tìm vị trí và chỗ đứng mới cho bản thân. Đây được đánh giá là một trong những quyết định đứng đắn nhất của Việt Nam trong thập niên 80-90. Vì vậy mục đích lựa chọn giai đoạn này là nhằm đánh giá chính sách đối ngoại đổi mới trong giai đoạn từ 1986 đến 1991. Muốn đi sâu và phân tích sâu hơn về việc tại sao Việt Nam lựa chọn ASEAN làm bước tiến mới trong việc đổi mới tư duy đối ngoại.Vì nhiều lý do bài viết có thể có những sơ suất, rất mong cô và các bạn góp ý thêm để bài viết hoàn thiện hơn. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG HÌNH THÀNH NÊN ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IV được tổ chức ngày 14-20/12/1976, đây là đại hội đầu tiên kể từ ngày đất nước được thống nhất. Đứng trước tình hình khó khăn của đất nước sau chiến tranh, Đại hội đã đề ra những sách lược từng bước đưa Việt Nam thoát khỏi khó khăn bằng kế hoạch 5 năm 1976-1980. Trong chính sách đối ngoại, từ nhận định tình hình thực tế của ba dòng thác cách mạng. “Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười thắng lợi là bước nhảy vọt vĩ đại đầu tiên mở ra thời đại mới, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chiến tranh oanh liệt của Liên Xô cùng các lực lượng cách mạng và tiến bộ khác trong chiến tranh thế giới thứ 2 mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng thế giới. Sau khi chủ nghĩa phát xít Histle bị đánh bại một loạt nước dân chủ nhân dân ra đời. Thắng lợi to lớn của cách mạng Trung Quốc làm cho cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía cách mạng. Chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành hệ thống thế giới. Với những thành tựu to lớn về mọi mặt, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày nay đã có một sức mạnh tổng hợp hơn hẳn lực lượng của chủ nghĩa đế quốc. Cuộc sống chứng tỏ rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng phát huy tác động là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Đó là thành trì kiên cố của cách mạng vô sản thế giới, là chỗ dựa vững chắc của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân các nước. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn và tính tổ chức cao, làm nổi bật năng lực cách mạng vô cùng to lớn của giai cấp công nhân đang cùng với lực lượng dân chủ khác giáng những đòn tiến mạnh liệt vào chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhất định giai cấp công nhân sẽ đánh bại mọi thế lực phản động và sớm muộn sẽ vĩnh viễn loại trừ chủ nghĩa tư bản ra khỏi đời sống xã hội.”(1) Trích văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 4- Văn kiện Đảng toàn tập –tập 37. Từ đó tại Đại hội Đảng lần IV Việt Nam đã hình thành nên chính sách đối ngoại Ra sức tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phong trào cộng sản quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lenin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước Đông Nam Châu Á vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, và trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của đế quốc trên đất nước mình; sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực này trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại trong hòa bình. Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, vì độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ xã hội. Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của các nước tư bản chủ nghĩa đang xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bộn tư bản lũng đoạn trong nước và ngoài nước, dành quyền dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc dân chủ và bảo vệ hòa bình thế giới, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội. Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh chống chính sách xâm lược và gây chiến của bọn đế quốc đứng đầ là đế quốc Mỹ, góp phần tích cực vào sự nghiệp gìn giữ và củng cố hòa bình trên thế giới.Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta không ngừng giáo dục đảng viên và nhân dân ta thấm nhuần những tình cảm cách mạng trong sáng của Hồ Chủ tịch, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chống mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa và mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản, giữ vững độc lập, tự chủ, ra sức làm tròn nhiệm vụ đối với dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân các nước. (Trích văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 4 – Văn kiện Đảng toàn tập – tập 37) Nhìn vào nhận định tình hình, và đường lối đối ngoại trong sách lược của Đảng chúng ta thấy nó vẫn nặng nề tính ý thức hệ. Trong các văn bản này chí có các nước XHCN anh em, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào công nhân mà không hề đề cập đến những quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, các quốc gia TBCN đã từng ủng hộ nhân dân Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc. Thực tế đối ngoại, chúng ta cũng đã có những hoạt động để từng bước đẩy lùi khó khăn đối với một đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh như tuyên bố bốn điểm với ASEAN, các chuyến thăm của người đứng đầu chính phủ tới Pháp, Phần Lan, thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản…Trong vấn đề quan hệ với Hoa Kỳ, chúng ta vẫn xem họ là kẻ thù nguy hiểm, nhưng vẫn cử các đoàn đàm phán song phương với họ. Tuy nhiên, việc chúng ta quá cứng nhắc trong việc kiên quyết thực hiện điều 21 của Hiệp định Paris đã làm cho Hoa kỳ không hài lòng, từ đó làm cho mối quan hệ này đi vào thế bế tắt. Cho đến cuối năm 1978 đầu năm 1979, khi chúng ta dính líu vào hai cuộc chiến biên giới cho dù là khách quan và việc chính thức đưa quân tình nguyện vào campuchia đã đẩy Việt Nam vào một thái cực khác. Có thể nói vấn đề Campuchia là một lực cản trong suốt quá trình đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1979-1985. tình hình Đông Nam Á trước đây hòa dịu thì giai đoạn này chuyển sang giai đoạn đối đầu của hai khối Đông Dương-TBCN. Trung Quốc cũng lợi dụng tình hình Campuchia để làm con bài mặc cả với Liên Xô và Mỹ. Trong thời kỳ này, chúng ta vẫn tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước XHCN anh em và khẳng đinh sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc. Đặc biệt trong thời kì này sự đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng căng thẳng sau tuyên bố của Đặng Tiểu Bình là “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học.” Khi đó tại văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản việt Nam lần thứ V vẫn xác định đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Quan hệ Việt Nam- Lào- Campuchia là quy luật phát triển của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn với vận mệnh của ba dân tộc. Đặc biệt tại Đại Hội Đảng lần thứ V trong lời nói đầu của hiến pháp 1980 chúng ta còn đưa Trung Quốc là một thế lực bành trướng. Nhìn lại văn kiện trên, chúng ta thực sự đặt Trung Quốc ra khỏi quỹ đạo ngoại giao của Việt Nam. Vì thế, việc Trung Quốc xem chúng ta là kẻ thù và và có những hành động để bao vây chúng ta là điều đương nhiện. Bên cạnh Trung Quốc, Hoa kỳ và đồng minh của họ cũng ra sức bao vây cấm vận Việt Nam. Ở Đông Nam Á, thật sự chúng ta không còn được tôn trọng như thời gian sau ngày thống nhất đất nước. Như vậy từ giai đoạn 1975-1985 thì chúng ta không có bước tiến mới trên mặt trận đối ngoại nếu không muốn nói là thụt lùi. Cựu đại sứ Việt Nam tại Indonesia Ông Trình Xuân Lãng đã nhận xét: “Đại thắng mùa xuân 1975 chấm đứt chiến tranh, đem lại hòa bình độc lập hoàn toàn và thống nhất toàn vẹn cho nhân dân ta. Nó đem lại những thay đổi căn bản trong tình hình Đông Nam Á. Và lợi ích của các nước trong khu vực và của nhiều nước có liên quan cũng thay đổi. Nguyện vọng chung của các nước trong khu vực là muốn hòa bình, ổn định để phát triển. Các nước ASEAN trước đây đã dính líu vào các cuộc chiến tranh của Mỹ nên sau khi ta chiến thắng rất muốn có quan hệ tốt với ta; họ sợ bị ta trừng phạt và trả thù. Đến năm 1977, Jimmy Carter lên làm tổng thống đã có ý muốn mở rộng quan hệ với ta. Vì khi đó tuy vẫn coi Đông Nam Á là khu vực ưu tiên hàng đầu trong chiến lược của họ, nhưng sau khi thất bại Mỹ đã rút hết quân sự khỏi lục địa và vẫn phải đối phó với ảnh hưởng của Liên Xô, Trung Quốc ở vùng này. Vì vậy họ giảm rất nhiều quan tâm đối với khu vực. Mối quan tâm chính của họ là làm sao giữ không để một nước nào trong khu vực, nhất là Thái Lan rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác cả nước Mỹ đang bị chìm đắm trong “ hội chứng Việt Nam” và rất sợ lại dính líu vào một Việt Nam thứ hai. Rất tiếc trong một thời gian dài ta đã không nhìn thấy những chuyển biến đó. Trước hết và điều quan trọng nhất ta đã chậm nhìn thấy ý đồ tập hợp lực lượng mời chống ta để kịp thời có chính sách và chiến lược thỏa đáng. Mặt khác, cho đến nhiều năm sau chiến tranh ta vẫn nhìn tình hình khu vực theo cách nhìn cũ. Đó là, ta vẫn coi Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm đang lăm le thi hành kế hoạch hậu chiến chống ta và không quan tâm đến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. bên cạnh đó, đối với các nước ASEAN ta vẫn cho đó là khối SEATO trá hình, các nước ASEAN là tay sai của Mỹ bảo vệ lợi ích của Mỹ, nên mặc dù đã dưa ra chính sách bốn điểm và đã bình thường hóa với họ ta vẫn dè dặt trong quan hệ với họ. Do đó khi ta kí hiệp ước Hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và sau đó đưa quân vào Campuchia lật đổ chế độ Polpot họ đã chuyển sang đối đầu quyết liệt với ta về chính trị và ngoại giao. Tôi nghĩ, nếu hồi đó ta có cái nhìn tỉnh táo hơn đối với tình hình thế giới và khu vực, thấy rõ và cân bằng hơn hai nhiệm vụ chiến lược của ta sau chiến tranh là xây dựng bảo vệ đất nước, có lẽ ta đã có một chính sách đối ngoại thức thời hơn,tạo mên một sự cân bằng lực lượng mới trong khu vực có lợi cho ta, ngăn ngừa những mưu đồ xấu, tránh được những khó khăn không đáng có trong hơn mười năm qua và có điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực hiện hai nhiệm vực chiến lược nói trên.” Trong thời gian này xét trên bình diện chính sách đối ngoại, chúng ta hoàn toàn không đạt được ba mục tiêu: An ninh, Phát triển và Ảnh hưởng. Về An ninh, chúng ta bị dính líu vào hai cuộc chiến tranh biên giới. Về Ảnh hưởng, Việt Nam từ một nước chiến thắng đế quốc trở thành một mối nghi ngại vì sự hiếu chiến. Việc chúng ta đưa quân vào Campuchia đã khiến cho các nước Đông Nam Á xem chúng ta như là một mối đe dọa an ninh của họ. Về Vấn đề phát triển, hầu như chúng ta không đạt được gì. Nền kinh tế tập trung quan lieu bao cấp. Kinh tế chủ yếu được viện trợ từ các nước XHCN anh em trong khối SEV. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta phải nhập lương thực. Và nạn đói đã bắt đầu xảy ra. Đối với tình hình thế giới hệ thống XHCN đang gặp phải khủng hoảng. Chương trình cải tổ của Liên Xô và tổng thống Gorbachev đã cắt giảm viện trợ cho các nước XHCN đã làm cho tình hình kinh tế càng khó khăn. Trong khi đó, tình hình đối đầu hai cực Xô-Mỹ đã giảm dần. Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của thời kì này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra chính sách hợp lý để đưa đất nước thoát ra những khó khăn trong đối nội cũng như đối ngoại. Từng bước giúp Việt Nam thoát khỏi tình trạng bị cô lập, và nhất là giải pháp cho vấn đề Campuchia đã khẳng định một vị trí mới cho một đất nước Việt Nam XHCN. II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM 1986-1991 Đường lối đổi mới của Việt Nam được hoạch định từ giữa năm 1986 thông qua nghị quyết 32 Bộ chính trị khóa V. Tình hình quốc tế và khu vực. Tình hình quốc tế. Cuộc đấu tranh trên thế giới trong 40 năm qua đã có những biến đổi sâu sắc trong quá trình phát triển của loài người từ CNTB lên CNXH.  …Bộ Chính trị nhận định: “Từ giữa những năm 1970 nhất là những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến rất quan trọng, đặt ra nhiều vấn đề mới cho tất cả các nước.” Cụ thể là: “Sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng quốc tế hoá, cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô đã tới đỉnh cao, sự thức tỉnh của các dân tộc và của cả loài người đấu tranh cho hoà bình, độc lập và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Khả năng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới không ngừng tăng lên, các thế lực đế quốc và phản động dùng chiến tranh cục bộ chống các dân tộc, nhưng cuộc đầu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do vẫn không ngừng phát triển. Các mạng khoa học kỹ thuật và bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất thế giời đã đặt ra cho các nước thuộc cả hai hệ thống nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết. Các nước lớn, kể cả những nước có tiềm lực mạnh, buộc phải giảm chạy đua vũ trang hạt nhân và chi phí quốc phòng, giảm cam kết về quân sự ở bên ngoài và dàn xếp với nhau về các vấn đề khu vực để tập trung và cũng cố bên trong, chạy đau ráo riết về kinh tế và khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển cao vào cuối thế kỹ này. Xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau ngày càng phát triển. Biện pháp và hình thức đấu tranh có thể đa dạng, nhưng vẫn chung một tính chất phức tạp và quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp trên thế giới.” Cách mạng khoa học – kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế, buộc các nước phải đề ra chiến lược phát triển cho phù hợp, các nước lớn phải điều chỉnh chính sách: giảm chạy đua vũ trang, giảm chi phí quân sự quốc phòng, giảm cam kết quân sự ở bên ngoài, dàn xếp vấn đề khu vực và đẩy mạnh cải thiện quan hệ với nhau tập trung củng cố nội bộ, phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia. Điều đó làm tăng xu thế đối thoại và hòa dịu. Tình hình khu vực Tình hình Châu Á- Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng cũng có nhiều chuyển động. Châu Á- Thái Bình Dương là khu vực phát triển năng động và đang tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao như Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kong, Singapo, Thái Lan, Malaysia. Đông Nam Á vẫn thu hút được sự chú ý của các nước lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên Xô, Nhật và các nước Tây Âu. Tình hình khu vực này cũng từng bước chuyển động theo hướng giảm đối đầu, đi vào đối thoại giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác để cùng phát triển. Đổi mới tư duy đối ngoại Từ chỗ đánh giá những diễn biến mới trên thế giới và khu vực, Bộ Chính trị kết luận là chúng ta có cơ hội lớn để giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế và chỉ ra rằng. “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố và giữa an ninh và độc lập. Chúng ta phải có một chiến lược toàn diện và quiets tâm thực hiện bằng được mục tiêu đó.” Bộ chính trị cho rằng . “Cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế…..với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mởi rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công CNXH hơn.” Tháng 7 năm 1986, Bộ Chính trị khóa V của Đảng đã đưa ra nghị quyết 32 điều chỉnh bước đầu chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nghị quyết nhấn mạnh cần chủ động chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hòa bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Tại văn kiện Đại hội đại biểu Đảng lần thứ VI- 1986 đã nêu: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vì sự nghiệp dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Đấu tranh giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần gìn giữ hoà bình ở Đông Nam á, ở châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới, chống chính sách của các giới đế quốc chạy đua vũ trang và gây nguy cơ chiến tranh hạt nhân, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia; đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy ảnh hưởng của cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; củng cố sự hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế. Ủng hộ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng và độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, và chủ n
Luận văn liên quan