Tiểu luận Chính sách ngoại thương, tình hình kinh tế khối EU và quan hệ với Việt Nam

Trong những những năm gần đây nền kinh tế nước ta phát triển và đạt nhiều thành tựu đáng kể, điển hình là Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc là thành viên của WTO cho nước ta nhiều cơ hội cũng như thách thức, đặc biệt là ở thị trường khó tính như EU. EU là một trong những thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam bên cạnh thị trường Mỹ, Nhật. Để có thể kinh doanh thành công tại thị trường khó tính này doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rõ những chính sách ngoại thương của EU.

doc72 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách ngoại thương, tình hình kinh tế khối EU và quan hệ với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH  (((((((((( TIỂU LUẬN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Đề tài: CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG, TÌNH HÌNH KINH TẾ KHỐI EU VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM  Nhóm thực hiện: Nhóm 3 Lớp: 06DQN Giảng viên: Th.S Cao Minh Trí TP.HỒ CHÍ MINH 2/2009 Danh sách nhóm 3: Trần Thị Ngọc Hà Trương Thị Tường Vi Ngô Cẩm Tú Lâm Thị Hồng Dương Ái Phương Nguyễn Thị Thúy Nguyễn Thị Xuân Nguyễn Thị Kim Long. Lương Hồ Xuân Hương Lê Kim Liên Lê Trọng Hiếu Trần Văn Minh Trần Ngọc Minh Trần Vũ Mai Phương Nguyễn Thị Thanh Thuận Cao Quốc Thắng. Mục lục Quá trình hình thành của EU (1 - 8) Chính sách ngoại thương của EU (8 – 26) Chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu của EU Tình hình kinh tế của EU (26 – 36) Quan hệ Việt Nam và EU Thực trạng (35-38) Những cơ sở vàng (38-39) Bối cảnh mới, quan hệ mới (39-41) Mối quan hệ giữa VN với 1 số nước EU (41-47) Mối quan hệ giữa VN với EU thể hiện ở 1 số lĩnh vực (47-51) Lĩnh vực đầu tư (47-49) Văn hóa – Giáo dục (49) Lĩnh vực năng lượng (49) Về môi trường(49-50) Dự Án MUTRAP (50-51) V. Chính sách của EU đối với VN (51-53) 1 GSP 2 Hiệp định PCA 3 Thuế quan VI. Tình hình xuất nhập khẩu EU_ VN (53-62) VII. Swot Điểm mạnh (63-66) Điểm yếu (66-69) Cơ hội (69-70) Thách thức (70-73) VIII. Kiến nghị và đề xuất (73-75) VII. Phụ lục 1. Xuất khẩu da giày vào EU suy giảm lợi thế giá 2. Từ 1-1-2009, EU chính thức “loại” giày da Việt Nam ra khỏi GSP 3. Suy thoái kinh tế sẽ gây những khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam sang EU trong năm 2009 4. Những khó khăn của VN khi thâm nhập thị trường EU Lời mở đầu Trong những những năm gần đây nền kinh tế nước ta phát triển và đạt nhiều thành tựu đáng kể, điển hình là Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc là thành viên của WTO cho nước ta nhiều cơ hội cũng như thách thức, đặc biệt là ở thị trường khó tính như EU. EU là một trong những thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam bên cạnh thị trường Mỹ, Nhật. Để có thể kinh doanh thành công tại thị trường khó tính này doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rõ những chính sách ngoại thương của EU. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu trình bày về chính sách ngoại thương ,tình hình thương mại quốc tế của EU & quan hệ với Việt Nam Qúa trình hình thành của EU: Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 1998 đạt 8.482 tỷ USD, chiếm 19,8% GDP toàn cầu, năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn cầu), và năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD. GDP tính theo đầu người năm 1995 là 23.089 USD/ người, năm 2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài chính khổng lồ với đồng. Là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992, thường gọi là Hiệp ước Maastricht. Tuy nhiên, nhiều phương diện của Liên minh châu Âu đã có từ trước, kể từ thập niên 1950, thông qua một loạt các tổ chức tiền thân. Lịch sử của Liên minh châu Âu bắt đầu từ chiến tranh thế giới thứ II. Ý tưởng về hội nhập châu Âu đã được nhận thức sẽ giúp ngăn chặn việc giết chóc và phá hủy không xảy ra nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Cũng chính ngày này hiện nay được coi là ngày thành lập của EU và được kỉ niệm hàng năm là Ngày châu Âu. Ban đầu, EU bao gồm 6 quốc gia thành viên là:Bỉ, Đức, Italia, Luxembourg, Pháp, Hà Lan . Năm 1973, tăng lên thành gồm 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng lên thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành 25. Năm 2007 tăng lên thành 27. Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ. Trước ngày 1 tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC). Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập: 1957: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan 1973: Đan Mạch, Ireland, Anh 1981: Hy Lạp 1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha 1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp Ngày 1/1/2007: Romania, Bulgaria. Vẫn còn 22 quốc gia gồm Albania, Andorra, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bosnia & Herzegovina, Croatia, Grugia, Iceland, Liechtenstein, Macedonia, Moldova, Monaco, Montenegro, Na Uy, Nga, San Marino, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ukraina, và Vatican chưa gia nhập Liên minh châu Âu. Hiện nay, EU có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu người (2006) ; với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (~15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu. Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 1998 đạt 8.482 tỷ USD, chiếm 19,8% GDP toàn cầu, năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn cầu), và năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD. GDP tính theo đầu người năm 1995 là 23.089 USD/ người, năm 2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài chính khổng lồ với đồng. Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của Bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền thân của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể thấy quá trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay): Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC) được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965 giữa các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu. Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992 tại Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của nguyên thu quốc gia các nước thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) nhằm thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách về xã hội. Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của 15 nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là: Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực. Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực của EU, tiến trình nhất thể hoá châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều lĩnh vực. II. Chính sách ngoại thương của EU Thị trường EU gồm hầu hết các nước châu Âu với gần 4 triệu km2 và 456 triệu dân có thu nhập cao. GDP gần 11.000 tỉ USD chiếm 27% GDP thế giới. Tổng ngạch ngoại thương gần 1.400 tỉ USD chiếm gần 20% thương mại toàn cầu. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ chiếm hơn 41% thị phần thế giới. EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ chiếm khoảng 43% thị phần, gấp 2,5 lần Mỹ. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu và nhận 20% đầu tư từ bên ngoài. EU là thị trường mở, mang tính cạnh tranh rất cao đồng thời yêu cầu cao về chất lượng hang, vễ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì…Khung pháp lý về thị trường đã được mở hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam ngoài việc tiếp tục được hưởng ưu đãi GSP. Tuy vậy, để có thể tiếp cận thị trường EU, các doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu sau đây: Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát.v.v...Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN toàn phần cho sản phẩm nhập khẩu từ Ôxtrâylia, Canađa, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, NiuZealand, Hoa Kì và các hiệp định ngành hàng song phương khác. Bên cạnh các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần trị giá và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, EU đã có cam kết cụ thể thực hiện theo lịch trình chung của GATs, kể cả lĩnh vực viễn thông cơ bản, tài chính và dịch vụ nghe nhìn. EU áp dụng Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho 143 quốc gia và 36 vùng lãnh thổ, trong đó các nước chậm phát triển nhất được ưu đãi nhiều hơn theo sáng kiến “Mọi sản trừ vũ khí-EBA” EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào lãnh thổ mình như thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy phép, biện pháp tự vệ, quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, chống bán phá giá… Tất cả các nước thành viên EU phải áp dụng chính sách ngoại thương chung đối với ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng dựa trên các nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch, chống bán phá giá, hàng rào kĩ thuật, trợ cấp xuất khẩu EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình thức đẩy mạnh tự do hoá thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 25 nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá XNK. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, hàng công nghiệp là 2% Chính sách ngoại thương của EU từ 1951 đến nay phân thành những nhóm chủ yếu sau: chóm chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhóm chính sách thay thế nhập khẩu, nhóm chính sách tự do hoá thương mại, nhóm chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành tình hình phát triển kinh tế, tiến trình nhất thể chế hóa châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm của Liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài ra EU còn có quy chế nhập khẩu chung. Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu dưới hình thức bán phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với các nước ngoài khối. Ví dụ, đánh thuế 30% đối với những sản phẩm điện tử của Hàn Quốc và Singapore, nhôm của Nga và xe hơi của Nhật Bản, giày dép của Trung Quốc, đánh thuế 50% -100% đối với các xí nghiệp sản xuất camera truyền hình của Nhật Bản.. Trong khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng hóa được sản xuất do sao chép, đánh cấp bản quyền. Chính sách ngoại thương của EU biểu hiện trong việc áp dụng một số chính sách và công cụ đặc biệt, tiêu biểu là biểu thuế quan chung và chính sách chống bán phá giá Biểu thuế quan chung (CCT – Common Custom Tariff) của Liên minh châu Âu. EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) chủ yếu đối với các mặt hàng công nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của Liên minh. Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các quy định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Các mức thuế quan được xây dựng trên cơ sở lấy bình quân các mức thuế áp dụng với từng mặt hàng kể từ ngày 1/1/1957 ở 6 nước của EEC khi mới thành lập là Pháp, Tây Đức, Italy, và Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg). Theo cách tính này thì phần lớn các mức thuế của Pháp và Italy phải giảm đi, còn các mức thuế ở Đức và Luxembourg được tăng lên. Trong quá trình xây dựng, CCT được chia thành ba giai đoạn và kết thúc vào năm 1968, sớm hơn so với thời hạn dự kiến 2 năm. Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn sẵn sàng đàm phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Những thoả thuận về những cắt giảm như vậy đã đạt được trong khuôn khổ một loạt các vòng đàm phán Dillon (1961-1962), mức CCT bình quân được giảm từ 25% vào năm 1958 xuống còn 11,7% vào năm 1963. Còn kết quả đạt được sau vòng đàm phán Kennedy là các mức thuế quan được cắt giảm trung bình đối với Hoa Kỳ là 32% và với Anh là 35%. Do có những thoả thuận cắt giảm như vậy cho nên đến tháng 1/1972, mức trung bình của CCT chỉ còn là 8,1% giảm đi 35% so với mức ban đầu, 12% và 11,5%. Một khi đã xây dựng được các mức CCT thì các nước thành viên phải có nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thức thống nhất. Điều này liên quan đến danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với việc thực hiện GSP. Đặc biệt khi làm rõ đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải nghiên cứu biểu thuế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá theo quy định của liên minh. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy định cụ thể như sau: Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng hoá sản xuất từ các sản phẩm đó xem là có xuất xứ và được hưởng GSP. Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP ( tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60% tổng giá trị hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60% (điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh không dưới 40%: đồ trang trí làm từ kim loại không dưới 30%; giày dép chỉ được hưởng GSP nếu các bộ phận như: mũi, đế, ở dạng rời sản xuất trong nước hưởng GSP hoặc nhập khẩu;..) EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, đây là quy định về xuất xứ mà theo đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước trong cùng một tổ chức khu vực cũng được hưởng GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Thí dụ, Việt Nam xuất khẩu sang EU một mặt hàng trong đó thành phần xuất xứ của Việt Nam chiếm 29% giá trị, còn lại 15% giá trị nhập khẩu của Indonesia, 10% của Thái lan, 15% của Singapone. Xuất xứ cộng gộp của hàng Việt Nam sẽ là: 20%+15%+10% = 60%. Mặt hàng này lẽ ra không được hưởng GSP (vì hàm lượng giá trị của Việt Nam chưa được 50%), nhưng nhờ cộng gộp (60%) nên đã đủ điều kiện hưởng GSP. Đây là đặc điểm về xuất xứ của EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và vận dụng. Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của Liên minh châu Âu. Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp cho hàng hoá của các nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông qua một số những ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước này phát triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi có đi có lại, đơn phương quyết định. Chương trình này đã được Hội đồng châu Âu thông qua quy chế áp dụng cho từng thời kỳ: 1971 -1980, 1981-1990, 1991-1994, 1994-2005. Trong 8 năm trở lại đây, chương trình ưu đãi thuế quan 4 năm (1995-1998) đối với các sản phẩm công nghiệp nhất định có nguồn gốc từ các nước đang phát triển; (2) Quy định số 1256/96 ngày 20/6/1996 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trong 4 năm (1996-1999) đối với một số sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc từ các nước đang phát triển: (3) Quy định số 2820 ngày 21/12/1998 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trọng 3 năm (1999-2001) đối với tất cả các sản phẩm có xuất xứ các nước đang phát triển. Hiện nay, EU vẫn đang áp dụng chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập cho thời kỳ từ 1/7/1999 đến 31/12/2001. Theo chương trình này, EU chia ra các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với mức thuế khác nhau dựa trên mức độ nhạy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU là: + Nhóm 1- Sản phẩm rất nhạy cảm: bao gồm phần lớn là nông sản và một số ít sản phảm công nghiệp tiêu dùng như: chuối tươi, chuối khô, dứa tưới, dứa hộp, (lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ tằm,.. được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế xuất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU hạn chế nhập khẩu. + Nhóm 2- Sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hoá chất, nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền và đồ sứ), gày dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em…được hưởng mức thế GSP bằng 70% thuế suất MFN. Đây là nhóm mạt hàmg mà EU không khuyến khích nhập khẩu. + Nhóm 3- Sản phẩm án nhạy cảm: bao gồm phần lớn thuỷ sản đông lạnh (tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh) một số nguyên liệu và hoá chất, hàng công nghiệp dân dụng (máy điều hoà, máy giặt, tủ lạnh)..được hưởng mức thuế suất GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu. + Nhóm 4 - Sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống, (nước khoáng, bia, rượu), nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su..), nông sản (dừa cả vỏ, hạt điều)..được hưởng mức thuế GSP bằng 0% đến 10% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu. Mỗi nhóm hàng trên gồm nhiều mặt hàng chịu các mức thuế suất khác nhau trong phạm vi giới hạn của GSP giai đoạn 1/7/1999 đến 31/12/2001. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn của chương trình GSP và xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO còn đối với những nước không phải là thành viên của WTO thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005 trở đi, nhưng họ đang tiến từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Trong tương lai, tới một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu cùng một mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác. Như v
Luận văn liên quan