Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái trung quốc và mậu dịch của Châu Á

Bài nghiên cứu này trả lời hai câu hỏi chính: - Khi đồng Nhân Dân Tệ thay đổi sẽ tác động như thế nào đến cán cân mậu dịch Trung Quốc? - Những bạn hàng sẽ bị ảnh hưởng như thế nào? Bài nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng, trên thực tế Cán cân mậu dịch Trung Quốc nhạy cảm với những thay đổi bất thường trong tỷ giá thực hiệu dụng (REER) của đồng Nhân Dân Tệ (NDT), mặc dù vậy thì chính sách tỷ giá một mình nó cũng không thể nào giải quyết được mức độ thặng dư trong cán cân thương mại. Một trong những nguyên nhân chính giải thích tại sao sự suy giảm trong thặng dư mậu dịch là có giới hạn đó là nhập khẩu của Trung Quốc vẫn giảm mặc dù tăng giá đồng NDT. Qua việc đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả nhận ra rằng nhập khẩu từ những nước Đông Nam Á khác đều giảm. Kết quả này phản ánh sự “hợp nhất theo chiều dọc” (vertical intergration) của khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc thông qua “mạng lưới sản xuất Châu Á”. Tác giả cho thấy nhập khẩu từ Đức (nơi đáp ứng nhu cầu trong nước của Trung Quốc) tăng cùng với việc tăng giá trị thực của đồng NDT đúng như mong đợi. Trên tất cả, kết quả nghiên cứu này gia tăng mối quan tâm đến tác động của việc tăng giá đồng NDT trên khu vực Đông Nam Á ngay cả trong trường hợp các đồng tiền khác trong khu vực không theo kịp hướng đi lên của đồng NDT

pdf16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái trung quốc và mậu dịch của Châu Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CỦA CHÂU Á Tóm tắt Bài nghiên cứu này trả lời hai câu hỏi chính: - Khi đồng Nhân Dân Tệ thay đổi sẽ tác động như thế nào đến cán cân mậu dịch Trung Quốc? - Những bạn hàng sẽ bị ảnh hưởng như thế nào? Bài nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng, trên thực tế Cán cân mậu dịch Trung Quốc nhạy cảm với những thay đổi bất thường trong tỷ giá thực hiệu dụng (REER) của đồng Nhân Dân Tệ (NDT), mặc dù vậy thì chính sách tỷ giá một mình nó cũng không thể nào giải quyết được mức độ thặng dư trong cán cân thương mại. Một trong những nguyên nhân chính giải thích tại sao sự suy giảm trong thặng dư mậu dịch là có giới hạn đó là nhập khẩu của Trung Quốc vẫn giảm mặc dù tăng giá đồng NDT. Qua việc đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả nhận ra rằng nhập khẩu từ những nước Đông Nam Á khác đều giảm. Kết quả này phản ánh sự “hợp nhất theo chiều dọc” (vertical intergration) của khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc thông qua “mạng lưới sản xuất Châu Á”. Tác giả cho thấy nhập khẩu từ Đức (nơi đáp ứng nhu cầu trong nước của Trung Quốc) tăng cùng với việc tăng giá trị thực của đồng NDT đúng như mong đợi. Trên tất cả, kết quả nghiên cứu này gia tăng mối quan tâm đến tác động của việc tăng giá đồng NDT trên khu vực Đông Nam Á ngay cả trong trường hợp các đồng tiền khác trong khu vực không theo kịp hướng đi lên của đồng NDT. 1. Giới thiệu Trong những năm gần đây, thị phần của Trung Quốc trong thương mại quốc tế đã phát triển cực kỳ nhanh chóng. Trung Quốc đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, cùng với Đức và Mỹ. Mậu dịch Trung Quốc đã rất cân bằng cho đến gần đây. Theo thống kê của cục hải quan Trung Quốc, năm 2004 thặng dư mậu dịch chỉ là 32 tỷ USD (khoản 1,7% GDP). Tuy nhiên, từ năm 2005 thặng dư mậu dịch không ngừng tăng lên, con số này lên đến gần 180 tỷ USD nă m 2006 (hay xấp xỉ 7% GDP). Trung Quốc đang đối mặt với áp lực mạnh mẽ từ các nước công nghiệp để định giá cao Đồng NDT. Trong thực tế, tỷ giá thực hiệu dụng (REER) đã có thời kỳ bị định giá cao một cách phi lý từ 1994 đến cuối năm 1997, nhưng có xu hướng giảm kể từ khi chuyển qua cơ chế tỷ giá linh hoạt. Mức độ thặng dư quá lớn là vấn đề quan trong không những đối với Trung Quốc mà còn với cả thế giới. Sự gia tăng thặng dư nhanh chóng chủa Trung Quốc được tranh luận rất nhiều trên các Diễn đàn chính sách quốc tế. Một mặt, chúng ta thật ấn tượng khi các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc vẫn duy trì tỷ giá thấp quá mức để thu lợi từ nhu cầu bên ngoài và đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao quá mức cần thiết. Mặt khác, có nhiều nghi ngờ rằng liệu tỷ giá hối đoái có thể là một công cụ hiệu quả giúp làm giảm thặng dư mậu dịch hay không, khi Trung Quốc là nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó giá cả có lẽ vẫn còn đóng vai trò hạn chế hơn trong quyết định của công ty liên quan đến cung và cầu. Tuy có nhiều mối quan tâm về vấn đề này nhưng tài liệu về đề tài này thì tương đối khan hiếm. Việc thiếu các dữ liệu thích hợp và chuỗi thời gian dài hạn gây khó khăn trong việc nghiên cứu để tìm ra mối liên hệ giữa tỷ giá đồng NDT và ngoại thương của Trung Quốc mãi cho đến gần đây. Từ mùa hè năm 2003, khi những tranh luận về việc đánh giá thấp đồng NDT lên đến đỉnh điểm, thì việc nghiên cứu chính sách tỷ giá hối đoái Trung Quốc bắt đầu nở rộ. Nhiều trong số đó đã tập trung đến việc ước lượng tỷ giá cân bằng dài hạn hay tìm kiếm chế độ tỷ giá thích hợp nhất đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trong khi cả hai câu hỏi trên đều liên quan tới nhau, chúng tôi nhận thấy vấn đề cấp bách nhất – cụ thể là đối với mức độ mất cân bằng mậu dịch toàn cầu và áp lực từ các nước công nghiệp – là Trung Quốc có nên để việc tăng giá nội tệ như một công cụ làm giảm thặng dư mậu dịch khổng lồ của mình hay không. Câu trả lời tùy thuộc rất nhiều vào tác động của việc tăng giá đồng NDT có thể làm hạn chế xuất khẩu và thúc đẩy nhập khẩu đến mức nào? Tác giả phân tích vấn đề này theo kinh nghiệm bằng cách sử dụng phân tích đồng liên kết. Theo kết quả của tác giả, thặng dư mậu dịch Trung Quốc có thể giảm nhờ nâng giá trị thực của đồng NDT nhưng giảm có giới hạn. Tác động tương đối nhỏ lên mức độ mất cân bằng – được giải thích chủ yết bởi sự co giãn giá riêng biệt của hàng nhập khẩu, cụ thể là hàng nhập khẩu Trung Quốc giảm theo sau một mức tăng giá đồng NDT thực tế. Qua đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả thấy hàng nhập khẩu từ các nước Châu Á giảm trong khi từ các nước công nghiệp khác (cụ thể là Đức) thì lại tăng. Điều này có thể được giải thích bởi sự “hợp nhất theo chiều dọc” của các nước Đông Nam Á và vai trò then chốt của Trung Quốc trong “mạng lưới sản xuất của khu vực”. 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây Tài liệu hiện tại về tác động của việc tăng giá thực của đồng NDT lên cán cân mậu dịch Trung Quốc có thể chia làm 2 nhóm dựa theo những hàm ý trong các chính sách mà Chính Phủ đang theo đuổi (policy implications). Nhóm thứ nhất chiếm đa số đã đưa ra những bằng chứng rằng việc nâng cao tỷ giá thực làm giảm thặng dư mậu dịch thông qua xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc cả hai. Nhóm còn lại thì cho rằng không có tác động to lớn nào lên tài khoản thương mại. Với nhóm thứ nhất, Cerra và Dayal-Gulati (1999) dùng Cơ chế hiệu chỉnh sai số (ECM – Error Correction Model) để ước lượng co giãn về giá cả của xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc trong giai đoạn 1983-1997 và tìm ra rằng đối với xuất khẩu là -0.3 và nhập khẩu là 0.7. Thên vào đó, họ chỉ ra rằng độ co giãn về giá của xuất nhập khẩu đều tăng trong tương lai. Bảng 1 tóm tắt lại lý thuyết cũng như phương pháp luận đã sử dụng. Dees (2001) hoàn thiện phân tích trước đó bằng cách phân chia xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc thành 2 phạm trù: Hàng hóa gia công và hàng hóa thông thường. Ông ta nhận thấy: trong dài hạn tăng tỷ giá làm giảm xuất khẩu. Ông cũng nói rằng hàng xuất khẩu thông thường nhạy cảm về giá hơn là hàn gia công xuất khẩu. Tuy nhiên trong ngắn hạn chỉ có nhu cầu của thế giới mới tác động đến xuất khẩu. Cùng quan điểm, Yue và Hua (2002) dũng dữ liệu hàng năm của từng địa phương và chỉ ra rằng một sụt giảm trong xuất khẩu đi kèm với 1 gia tăng tỷ giá thực. Cùng quan điểm với Cerra và Dayal, nhưng với nhiều số liệu thực tế gần đây, Yue và Hua cho rằng hàng xuất khẩu Trung Quốc đang trở nên nhạy cảm về giá hơn. Besnassy-Quéré và Lahrèche-Revil (2003) giả sử tác động của việc giảm 10% giá trị đồng NDT và tuyên bố xuất khẩu của Trung Quốc vào các nước OECD tăng và nhập khẩu từ các nước chân Á mới nổi giảm (miễn là tỷ giá của các nước trong khu vực duy trì không đổi). Eckaus (2004) sử dụng những số liệu được tập hợp từ năm 1985-2002 để khám phá ra rằng sự định giá cao đồng NDT làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ và giảm thị phần hàng nhập xuất khẩu Trung Quốc trong tổng nhập khẩu Mỹ. Sau đó người ta đã chỉ ra rằng có sự tác động thay thế từ những nước xuất khẩu khác vào Mỹ, nhưng kết quả phải được xem xét kỹ lưỡng do số lượng quan sát nhỏ và việc sử dụng trị giá xuất nhập khẩu thay vì khối lượng. Lau, Mo và Li (2004) ước lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước G3. Trong dài hạn, sự định giá đúng tỷ giá thực hiệu lực có ý nghĩa trong việc giảm xuất khẩu. Ngược lại, cả hàng nhập khẩu thường và hàng nhập khẩu gia công đề không bị ảnh hưởng bởi REER. Trong một số trường hợp, những kết quả này không dễ gì giải thích được vì họ không nói ra cách làm giảm xuất nhập khẩu như thế nào, và số lượng mẫu quan sát không đủ lớn. (dữ liệu theo quý từ năm 1995 đến 2003). Thorbecke (2006) sử dụng mô hình “tương hỗ” (gravity model) để nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá trong mô hình mậu dịch ba bên ở Châu Á và chia xuất khẩu thành trung gian, vốn và sản phẩm cuối cùng. Những kết quả này cho chúng ta thấy việc đánh giá cao 10% giá trị đồng NDT làm giảm xuất khẩu 13%. Tuy nhiên, sự định giá này sẽ không ảnh hưởng một cách đáng kể đến nhập khẩu hàng Trung Quốc từ Mỹ. Voon, Guangzhong và Ran (2006) đã lần lượt sử dụng số liệu theo khu vực của giai đoạn 1978-1998 và hình thành mức độ đánh giá quá cao đồng NDT khi định giá các phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Họ cho rằng có 1 sự sụt giảm trong xuất khẩu qua Mỹ như là một hệ quả của việc đánh giá đúng tỷ giá thực. Cuối cùng, Shu và Yip (2006) đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá lên toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc và tìm ra rằng sự đánh giá cao nội tệ có thể làm giảm xuất khẩu dựa trên tác động chuyển dịch chi tiêu (đối với nước ngoài), kết quả là làm giảm nhẹ tổng cầu. Một cách đáng ngạc nhiên, một vài bài nghiên cứu khác đã cung cấp một cái nhìn khác trong một chừng mực nào đó về chính sách tỷ giá tác động như thế nào trong thặng dư mậu dịch Trung Quốc. Cụ thể, Kamada và Takagawa (2005) dùng mô hình mô phỏng để ước lượng tác động của cải cách tỷ giá Trung Quốc và chỉ ra rằng giá trị đồng NDT tăng 10% sẽ nâng nhập khẩu của Trung Quốc lên không đáng kể, trong khi ảnh hưởng xuất khẩu là rất ít. Tuy nhiên, mô hình ước lượng OLS trong phương trình nhập khẩu của Trung Quốc không cho chúng ta thấy tỷ giá thực có ảnh hưởng một cách đáng kể đến khối lượng nhập khẩu. Không may thay, họ không ước lượng phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Theo họ, xuất khẩu đẩy mạnh nhập khẩu, nghĩa là có 1 sự ảnh hưởng gián tiếp từ tỷ giá lên nhập khẩu thông qua xuất khẩu. Jin (2003) đánh giá mối quan hệ giữa lãi suất thực, tỷ giá thực và cán cân thanh toán của Trung Quốc và kết luận rằng sự nâng giá thực có xu hướng làm tăng thặng dư cán cân thanh toán. Cuối cùng, Cerra và Saxena (2003) sử dụng số liệu theo khu vực để nghiên cứu thái độ của nhà xuất khẩu và nhận thấy rằng sự tăng giá của đồng NDT đã thực sự đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trong một số trường hợp, kết quả của họ cần được xem xét một cách cẩn thận bởi vì chỉ có một nửa lượng xuất khẩu của Trung Quốc được đề cập trong số liệu theo khu vực và không có một sự điều chỉnh đặc trưng nào cho dữ liệu đơn vị giá của họ. Nỗ lực gần đây nhất để ước lượng các phương trình xuất nhập khẩu cho Trung Quốc là của Marquez và Schindler (2006). Thay vì định lượng khối lượng xuất nhập khẩu, họ ước lượng sự ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá thực trong thị phần của Trung Quốc trong tổng khối lượng mậu dịch thế giới. Điều này để tránh việc chiếm dụng các yếu tố đại diện cho giá cả xuất nhập khẩu Trung Quốc. Theo Dees (2001) và Lau Mo và Li (2004), họ chia xuất khẩu và nhập khẩu thành hai nhóm: thương mại hàng hóa thông thường và thương mại hàng hóa gia công. Một lần nữa, sự nâng giá thực của đồng NDT dường như đã làm giảm xuất khẩu cũng như nhập khẩu, ít nhất là trong trường hợp thương mại hàng thoogn thường. Kết quả rất thú vị nhưng nó không bền vững trong những độ trễ khác nhau, đặc biệt là xuất nhập khẩu hàng gia công. Có hai vấn đề nữa trong việc sử dụng phân tích của họ cho câu hỏi mà chúng ta đang tìm kiếm câu trả lời. Một là, những ảnh hưởng ước lượng trên thị phần xuất nhập khẩu, vì vậy không có kết luận có thể được rút ra liên quan với tài khoản thương mại. Thứ hai, không có những kỹ thuật đồng liên kết được sử dụng, vì vậy chỉ có những sự co giãn trong ngắn hạn có thể ước lượng được. Tóm lại, những kết quả nghiên cứu đang tồn tại, hoặc cũ và có những khuyết điểm tương đối trong phương pháp luận kinh tế lượng, hoặc khó có thể được sử dụng để đưa ra những kết luận về chính sách liên quan đến các tác động của việc nâng giá đồng NDT lên cán cân mậu dịch Trung Quốc. Trong tài liệu này, chúng tối sử dụng những dữ liệu gần hơn và cải thiện phương pháp luận thực tiễn để giải thích tốt hơn liệu một sự gia tăng trong giá trị của đồng NDT có thể làm giảm thặng dư mậu dịch của Trung Quốc hay không. Thêm vào đó, chúng tôi làm phong phú những phân tích này bằng việc ước lượng phương trình xuất nhập khẩu song phương. Điều này giúp chúng tôi kiểm tra chéo kết quả của chúng tôi cũng như khám phá ra đối tác thương mại nào sẽ thu được lợi nhuận và ai sẽ bị thua lỗ từ việc đánh giá vao đồng NDT. Như chúng tôi sẽ chỉ ra ở phần sau và sẽ áp dụng vào trường hợp của Trung Quốc, với một cấu trúc thương mại khác thường. 3. Phương pháp và dữ liệu Tác giả ước lượng phương trình xuất khẩu và nhập khẩu như sau: + + Trong đó: : giá trị xuất khẩu giá trị nhập khẩu REERt :tỷ giá thực hiệu dụng : nhu cầu nước ngoài Yt : nhu cầu trong nước : hệ số co giãn về giá của xuất khẩu : hệ số co giãn về thu nhập của xuất khẩu : hệ số co giãn về giá của nhập khẩu : hệ số co giãn về thu nhập của nhập khẩu. Do tầm quan trọng của hàng gia công đối với nền kinh tế Trung Quốc nên nhóm tác giả đã tách phương trình thành hai cho hàng hóa gia công và thông thường. Đối với nhập khẩu cũng như vậy. Thương mại hàng gia công bao gồm nhập khẩu các bộ phận và thành phần làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, xuất khẩu các linh kiện từ Trung Quốc để lắp ráp ở các nước khác và xuất khẩu hàng hóa được lắp ráp bằng linh kiện nhập khẩu. Còn thương mại thông thường là hàng hóa không liên quan tới gia công và không được lắp ráp từ các linh kiện nhập khẩu. Biểu đồ A1, A2 trong phụ lục thể hiện xu hướng xuất nhập khẩu thông thường và xuất nhập khẩu hàng gia công, cả hai đều tăng nhanh từ năm 2001 trở đi, cùng với việc gia nhập WTO của Trung Quốc. 3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu: Vì khi xử lý các số liệu thương mại của Trung Quốc, nhóm tác giả gặp khó khăn vì giá trị và khối lượng xuất nhập khẩu không thể được tách biệt, nên tác giả đã sử dụng dữ liệu thay thế. Để đại diện cho giá xuất khẩu tác giả sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc (CPI), vì chỉ số giá cả của nhà sản xuất hay nhà bán s ỉ đều không tồn tại trong toàn bộ mẫu họ đang xét. Tác giả sử dụng giá xuất khẩu từ Hồng Kông vào Trung Quốc để đại diện cho giá cả xuất khẩu của Trung Quốc và kết quả vẫn được duy trì. Giá nhập khẩu được tính bằng tỷ trọng giá xuất khẩu của 25 đối tác thương mại quan trọng nhất với Trung Quốc và làm điều chỉnh giảm nhập khẩu của Trung Quốc với chỉ số này (nguồn dữ liệu có thể được tìm thấy trong Bảng A1.1, Phụ lục 1). - Tỷ giá thực hiệu dụng (REER) được xây dựng như sau: REER = Trong đó N đại diện cho số lượng đồng tiền được tính trong chỉ số, là quyền số cho đồng tiền thứ I ( )và là tỷ giá thực song phương tương ứng với từng đối tác thương mại của Trung Quốc. - Hệ số co giãn: Tác giả kỳ vọng hệ số co giãn tỷ giá của xuất khẩu sẽ âm, bởi vì sản phẩm của Trung Quốc cạnh tranh trên thị trường thế giới. đối với hệ số co gián tỷ giá nhập khẩu không rõ ràng cho trường hợp của Trung Quốc, Một sự tăng giá của đồng nội tệ sẽ thúc đẩy nhập khẩu nếu gia tăng sức mua mạnh hơn sụt giảm nhu cầu do sự sụt giảm liên đới trong xuất khẩu. Tác động nào mạnh hơn thì sẽ phụ thuộc vào cơ cấu nhập khẩu. Nếu hàng nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm thay thế cho sản xuất trong nước, hệ số co giãn giá dương, (sự đánh giá cao đồng nội tệ sẽ làm tăng xuất khẩu). - Nhu cầu nước ngoài đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc được đo lường bằng lượng nhập khẩu trên thế giới và bị giảm bởi chỉ số giá toàn cầu. - Nhu cầu nội địa Trung Quốc, tác giả dựa trên sản lượng hàng công nghiệp, sản lượng hàng công nghiệp được ưa thích sử dụng hơn GDP vì nó có sẵn số liệu hàng tháng. - Các biến điều khiển trong phương trình xuất khẩu gồm: + Thuế VAT : chính sách thuế VAT của Chính phủ Trung Quốc có thể thúc đẩy hoặc kìm hàm xuất khẩu, việc giảm thuế VAT cho những công ty xuất khẩu sẽ thúc đẩy xuất khẩu. + Mức độ sử dụng năng lực sản xuất , biến này sẽ giúp xem xét đến việc hãm nguồn cung, cái mà có thể cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Mức độ sử dụng năng lực sản xuất được định nghĩa là sự khác nhau giữa sản lượng công nghiệp và sản lượng tiềm năng của nó, phần còn lại được tính bằng phương pháp lọc chuỗi của Hodrick- Prescott. + Biến cuối cùng là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo lý thuyết, sự gia tăng trong FDI sẽ làm gia tăng trong xuất khẩu. - Các biến điều khiển trong phương trình nhập khẩu gồm: + Thuế suất thuế nhập khẩu: thuế này được giảm với tốc độ rất nhanh kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO + Vốn FDI: chúng ta kỳ vọng có một sự ảnh hưởng tích cực đến nhập khẩu, bởi vì những công ty nước ngoài thường thích sử dụng máy móc, thành phần, các bộ phận nhập khẩu trong sản xuất hơn là các doanh nghiệp Trung Quốc. Cuối cùng là một xu hướng tất định được kể đến trong cả phương trình xuất khẩu và nhập khẩu khi nó có ý nghĩa thống kê. Biến xu hướng sẽ giúp sửa đổi và cải thiện năng suất đạt được trong nền kinh tế Trung Quốc, cái mà không dễ dàng đo lường được. Tác giả đã sử dụng dữ liệu theo tháng trong giai đoạn 1994-2005, phân tích dữ liệu trước năm 1994 ít có ý nghĩa, từ năm 1994 trở đi là một bước đột phá trong cải cách thị trường Trung Quốc. Một vài cải cách có liên quan đặc biệt đến vấn đề chúng ta đang nghiên cứu là hai hệ thống tỷ giá thống nhất lại, kế hoạch bắt buộc cho hàng nhập khẩu bị loại trừ, hạn ngạch và yêu cầu về các loại giấy phps bị cắt giảm. Hơn thế nữa, đồng Nhân dân tệ bắt đầu có tính thanh khoản trong tài khoản vãng lai trong khi sự phát triển khu vực tư nhân thu lợi nhuận từ luật doanh nghiệp mới. 3.2. Xử lý dữ liệu: Đầu tiên,tác giả sử dụng phép kiểm định ADF để tìm xem chuỗi thời gian có chứa nghiệm đơn vị hay không- một cách để kiểm định tính dừng của chuỗi. Theo tìm hiểu của nhóm em, để tạo cơ sở cho việc phân tích hồi qui liên quan tới các dữ liệu của chuỗi thời gian, là các dữ liệu đó phải dừng. Nếu chuỗi đó không dừng, hồi quy giả mạo làm sai lệch kết quả của mô hình. Kết quả của phép kiểm định này cho thấy hầu như các biến đều không dừng ở các cấp độ nhưng dừng ở sai phân bậc 1. Có 2 trường hợp ngoại lệ là: mức độ sử dụng năng lực sản xuất là một chuỗi thời gian dừng, quá trình dừng I(0), biến vốn FDI thì không dừng ở sai phân bậc 1. Tuy nhiên, kết quả sau đó cho thấy độ trễ tương đối lớn được đề xuất bởi thông tin Akaike. Nếu tác giả sử dụng một độ trễ, theo Schwar , tác giả có thể loại nghiệm đơn vị trong cả hai trường hợp dù ở mức ý nghĩa 1%. Sau đó, tác giả kiểm định sự tồn tại của đồng liên kết tích hợp theo phép kiểm định của Johansen. Tác giả đã tìm ra được 1 vector đòng liên kết thích hợp cho tất cả các nhóm của biến được kiểm định. Việc tìm ra vector đồng liên kết thích hợp của mỗi loại hàng xuất khẩu và nhập khẩu cho phép tác giả kiểm định sự hồi quy của độ trễ và sự khác biệt của chúng thông qua phương pháp bình phương nhỏ nhất phi tuyến Phillips và Loretan (1991). Phương pháp này khắc phục sự tương quan bởi bao gồm giá trị trễ của độ lệch cố định từ mối quan hệ đồng liên kết. Phương pháp này mang lại cách ước tính khách quan và phù hợp với thông số ngắn hạn và dài hạn. Dữ liệu sẽ được chia làm 2 giai đoạn: từ 1994 đến cuối năm 1999, từ đầu 2000 đến 2005. Dữ liệu từ 1994- 2005 bị gián đoạn trong năm 2000 (tác giả đã sử dụng kiểm định Chow để kiểm định sự gián đoạn về cấu trúc trong chuỗi thời gian, và tác giả đã tìm thấy một gián đoạn trong năm 2000 cho cả xuất khẩu và nhập khẩu). Trong cả hai trường hợp, tác giả đều phân biệt thương mại hàng thông thường và thương mại hàng gia công. 4. Kết quả của nghiên cứu Kết quả của phương trình xuất khẩu có thể xem ở Bảng A2 trong Phụ lục. Như kỳ vọng, co giãn về giá trong dài hạn của xuất khẩu của Trung Quốc cho cả hai – hàng gia công và hàng thông thường – đều âm, có ý nghĩa cho toàn bộ mẫu cũng như từ khi gia nhập WTO. Khi được điều chỉnh một cách thích hợp (bảng 2) thì sự co giãn trong dài hạn là - 1.3 cho xuất khẩu hàng gia công và -1.6 cho xuất khẩu hàng thông thường. Kết quả này rất gần với những nghiên cứu trước đây của Trung Quốc (-1.5 cho tổng xuất khẩu theo Lau Mo và Li, 2004, và -1.3 cho Shu và Yip, 2006. Và kết quả này cũng tương tự như s
Luận văn liên quan