Chợ làng hiểu một cách nôm na, đó là những ngôi chợ nhỏ, đơn sơ ở
những làng quê, nó hoàn toàn mang tính tự phát do nhu cầu trao đổi mua
bán những sản vật từ một nền kinh tế nông nghiệp tự sản tự tiêu của
người nông dân Việt Nam.
Có 2 loại chợ: chợ phiên và chợ hôm
Chợ phiên họp vào những ngày theo một chu kỳ nhất định. Khi nói chợ
họp ngày 3 và ngày 8, có nghĩa phiên chợ họp vào ngày mùng 3, mùng
8, mười ba, mười tám, hai ba, hai tám hàng tháng (theo âm lịch). Phiên
chợ chính bao giờ cũng đông hơn phiên chợ xép (chợ họp không đúng
phiên).
7 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5140 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chợ làng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐH QUẢNG NAM
KHOA VĂN HÓA –DU LỊCH
Tiểu luận
CHỢ LÀNG VIỆT NAM
1. Thế nào là chợ làng?
Chợ làng hiểu một cách nôm na, đó là những ngôi chợ nhỏ, đơn sơ ở
những làng quê, nó hoàn toàn mang tính tự phát do nhu cầu trao đổi mua
bán những sản vật từ một nền kinh tế nông nghiệp tự sản tự tiêu của
người nông dân Việt Nam.
Có 2 loại chợ: chợ phiên và chợ hôm
Chợ phiên họp vào những ngày theo một chu kỳ nhất định. Khi nói chợ
họp ngày 3 và ngày 8, có nghĩa phiên chợ họp vào ngày mùng 3, mùng
8, mười ba, mười tám, hai ba, hai tám hàng tháng (theo âm lịch). Phiên
chợ chính bao giờ cũng đông hơn phiên chợ xép (chợ họp không đúng
phiên).
Chợ Hôm ngày nào cũng họp. Người mua, người bán chỉ thưa thớt, trao
đổi những mặt hàng thiết yếu hàng ngày. Chợ thường họp vào buổi sáng
hay chiều. Nếu chợ họp vào buổi chiều thì gọi là chợ chiều.
2. Thời gian xuất hiện:
Chợ làng xuất hiện ở Việt Nam từ thời nguyên thủy. Xuất phát từ nhu
cầu trao đổi sản phẩm giữa các cư dân trong làng xã và các cư dân làng
xã ở các địa phương với nhau mà chợ làng được hình thành.
Ngay từ thời Lý, khu sinh sống chính của người Việt là lưu vực sông
ngòi lớn nhỏ và rất tự nhiên. Cái chợ sẽ nằm tại các ngã 3 nước để thuận
tiên cho việc giao dịch trao đổi hàng hóa. Sử Việt còn ghi dưới thời Thái
sư Trần Thủ Độ, Việt Nam có khoảng 100 chợ quê. Theo cấu trúc làng
xã, Việt Nam còn có làng ven đồi và làng ven biển nữa. Làng ven đồi
người dân làm nhà ở phía nam dãy đồi để tránh gió bấc thì cái chợ sẽ
nằm ở phía nam cuối đường. Với làng ven biển, có chợ cá họp sát ngay
mép sóng.
Thời Lê sơ hoạt động buôn bán phát triển nên nhà nước cho ban hành
thể lệ họp chợ, quyết định quy tắc họp luân phiên chợ theo đó địa điểm
chợ thay đổi xã này sang xã khác trong một cụm liên xã. Xã nào chưa có
chợ thì Nhà nước khuyến khích việc làm chợ.
Đến thế kỉ XVI xuất hiện giao lưu quốc tế nên có cảng thị. Cảng biển
cũng là cái chợ mở ra thông thương với bên ngoài mà thôi.
Sang thế kỉ XIX, văn minh đường cái mở ra, lại thêm cái chợ đường cái
họp nơi ngã ba đường như chợ Bần bán tương nổi tiếng. Chung quy lại,
chợ làng Việt Nam là chợ ngã ba và phổ biến nhất, cổ truyền nhất là cái
ngã ba nước…
3. Chợ làng - Đặc trưng văn hóa làng xã:
Nhắc đến văn hóa làng xã người ta không thể không nhắc tới chợ làng.
Quả thật một phần đời sống của những người dân quê được khắc họa
qua sự phát triển của chợ làng. Ngoài ý nghĩa trao đổi buôn bán, chợ
làng còn là nơi để thăm hỏi, mời gọi, nói chuyện con trâu, cái cày,
chuyện ruộng vườn, đồi núi… Tất cả cứ ồn ã, xôn xao và đậm đà tình
làng, nghĩa xóm. Bởi thế người xưa đã từng ao ước:
“Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi mà về”
Chợ quê đối với người Việt chúng ta là nơi gói ghém nhiều hình ảnh
thân thương, là một nét đặc thù văn hóa dân tộc không thể thiếu ở mỗi
làng quê Bắc Bộ, và hình như chỉ có ở Bắc Bộ, đặc biệt là đồng bằng
châu thổ sông Hồng mới có, nơi được xem là cái nôi của nền văn minh
lúa nước.
a. Quá trình trao đổi, buôn bán ở chợ làng:
Chợ làng là nơi trao đổi hàng hóa trong làng và các làng khác, chủ yếu là
trong nội thị của làng mà thôi. Đã có những lời đánh giá rằng : "Muốn
biết làng đó giàu hay nghèo, chỉ cần xem qua chợ buôn bán có đông vui
tấp nập hay không là đủ biết". Thế mới biết Chợ Làng quan trọng như
thế nào trong đời sống cư dân.
Chỉ cần nhìn vào chợ làng người ta cũng thấy được đời sống kinh tế của
người dân trong làng. Hình thành trên nền kinh tế tự cung, tự cấp, chợ
làng chính là mô hình thu nhỏ của một nền kinh tế xưa cũ. Một phần đời
sống của người dân quê được khắc họa và thể hiện qua cái chợ làng, từ
tương cà, mắm, muối, đến vải vóc, áo quần, hàng tươi, hàng khô… đều
có mặt đầy đủ với nhiều chủng loại phong phú phục vụ nhu cầu sinh
hoạt ngày càng khá giả, thịnh vượng hơn của làng quê. Vai trò của tiền
tệ không giữ vai trò chủ chốt mà ở đây chủ yếu là hàng đổi hàng, vật
đổi vật, mua những thứ mình thiếu và bán ra những thứ đã dư thừa.
Chợ làng tồn tại trên cơ sở những cung ứng tự phát của nông dân, nó gắn
bó với đời sống của nông thôn Việt Nam xưa, nhưng nó vừa có sức lôi
cuốn, vừa có khả năng duy trì, phát triển văn hóa làng.
b. Chợ làng- nét văn hóa thể hiện qua đời sống hằng ngày:
Chợ làng không chỉ là nơi để mua bán, trao đổi hàng hóa mà còn là nơi
giao lưu văn hóa giữa mọi người trong làng, với người làng khác, giữa
vùng này với vùng khác. Một phần đời sống của người dân quê được
khắc họa qua sự phát triển của chợ làng. Chợ là nơi lưu giữ tổng thể
những nét văn hóa cũng như tục lệ của người dân nơi đó. Thông qua
hoạt động mua, trao đổi thông tin mà chợ trở thành nơi các phong tục
văn hoá khác nhau tìm đến tiếng nói chung.
Tưởng chừng cái chợ chỉ là sự hiện hữu cụ thể người ta vẫn nhìn thấy,
vẫn biết nhưng bản chất văn hóa bên trong của nó thì ít ai biết được. Chợ
là nơi gói ghém những hình ảnh thân thương, là nét đặc thù văn hóa dân
tộc
Những người đi chợ xem việc đi chợ là đi chơi, đi bình phẩm. Đến chợ
thì biết đủ mọi chuyện trong họ ngoài làng. Vừa bán, vừa thông tin cho
nhau về cuộc sống đời thường. Chợ còn là điểm sinh hoạt văn hóa, chốn
hẹn hò. Phụ nữ đi chợ cốt để tâm sự, giải bày những uất ức trong cuộc
sống gia đình, bởi nơi đó họ bị kìm áp nặng nề, và là nơi mọi nỗi lo toan
bị biến mất. . Những chuyện hàng ngày của mỗi gia đình, mỗi người đều
được thông tin qua cái chợ. Người làng đi chợ cũng là dịp để họ gặp
nhau, hỏi thăm nhau. Hầu hết câu chuyện chỉ xoay quanh con trâu, mảnh
ruộng, chuyện cấy cầy nhà nông.
Dù còn mang nặng tính tự túc, tự cấp nhưng chợ quê không phải vì thế
mà đơn điệu, lạc lõng với thế giới bên ngoài. Người mua, kẻ bán, tất
thảy đều xởi lởi, vui vẻ, có khi còn đùa tếu pha trò. Cụ già ngồi bán
buồng cau, tiếp thị độc đáo bằng miếng trầu cánh phượng têm rất khéo
đặt bên cạnh lát rễ chay và quả cau bổ tư tươi rói, người không biết ăn
trầu nhìn cũng thấy hấp dẫn.
Người dân trong làng đã quen với tiếng mời mua hàng của các bà hàng
rau, hàng thịt... Tiếng nói chuyện, ở góc nọ, góc kia của chợ, thậm chí cả
tiếng chửi nhau của người bán và người mua. Đó là những cảm xúc rất
thường nhật, là cái hiện hữu vô hình nhưng lại không thể thiếu. Người
dân quê quen mặt hết các bà bán hàng, vì họ chẳng phải ai xa lạ, không
là người trong làng thì cũng là người làng khác. Mà có là người làng
khác thì cũng trong một xã, họ quen nhau. Vì vậy hôm nay thấy bà bán
rau không đi, chị bán thịt vắng mặt người ta lại hỏi thăm nhau.
c. Chợ làng đi vào thơ văn
Chợ làng cũng vì vậy mà đi vào thơ ca, văn học dân gian như tâm hồn,
bản tính người Việt. Thông qua thơ văn, chợ thể hiện sự gắn bó giữa
người với người, tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào về sản vật
của địa phương. Đến chợ, ta sẽ thấy hết được hương vị của làng, những
lề thói dân dã, những mối quan hệ xóm làng, và nơi hẹn hò của những
người đi chợ và đặc biệt là của trai gái yêu nhau,… Nó tràn ngập niềm
vui và vơi đi những lo toan trong cuộc sống hằng ngày.
d. Chợ làng ngày Tết:
Chợ làng ngày Tết là dịp gặp gỡ của những người xa xứ. Người Việt có
một đặc điểm dù đi đâu, làm gì và ở đâu thì hết năm thường về quê ăn
Tết. Người xa quê thích nhất được đi sắm Tết ở chợ làng để mua những
nải chuối quê, quả cau, lá trầu để cúng tổ tiên; lá dong, lá chuối về gói
bánh chưng, bánh gai, mớ rau, củ hành để ăn trong ba ngày Tết bởi đó là
những sản phẩm của người dân quê hương mà không nơi nào có và thay
thế được.
Chính vì vây, nó đóng vai trò trong việc hình thành và phát triển văn hóa
làng. Nó không chỉ tồn tại như một sự việc tái hiện hằng ngày mà là nét
văn hóa được truyền từ đời này sang đời khác, đó là không gian văn hóa
hết sức sâu đậm và vơi đi những nặng nhọc trong năm tháng vất vả.
*Chợ Bưởi – điển hình chợ làng thời xưa
“Chợ Bưởi một tháng sáu phiên
Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bồng”
Chợ Bưởi thuộc vùng Kẻ Bưởi, một trong những chợ cổ nhất Hà Nội
duy trì hình thức họp chợ phiên. Giống như nhiều chợ cổ Hà Nội (cận
sông, tiện đường đi), chợ Bưởi nằm bên vị trí hợp lưu của sông Thiên
Phù và sông Tô Lịch, thuận lợi về mặt giao thương trên bến dưới thuyền.
Chợ Bưởi ra đời từ thời gian nào thì không ai rõ, một số tài liệu cho rằng
thời Lý, nhưng cũng có tài liệu cho rằng từ thế kỉ XI , nhưng điều không
thể phủ nhận là chợ có tính lịch sử, văn hóa vào bậc nhất ở mảnh đất
Thăng Long - Hà Nội này.
Mang tính chất chất chợ vùng ven, chợ Bưởi là nơi trao đổi, mua bán sản
phẩm các làng nghề vùng Kẻ Bưởi làm ra như dệt lĩnh Yên Thái, Bái
Ân, giấy của làng Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã và dụng cụ sản xuất
nông nghiệp của vùng Xuân La, Xuân Đỉnh.
Người mua,kẻ bán đến chợ Bưởi lại được sống trong một phiên chợ quê
thuần chất. Người ta mang ra đủ thứ hàng hóa, chủ yếu là mặt hàng nông
sản, “cây nhà lá vườn” để mua bán, trao đổi với nhau. Một tháng, sáu
phiên nhưng ngày mồng 4 và mồng 9 (âm lịch) là ngày chợ họp đông
nhất. Cứ tầm 6 giờ sáng là người ta rục rịch mang hàng ra bày. Cứ thế
chợ rộn rã, lao xao đến giữa trưa thì tan, người chơi chợ về nhà, còn
cánh bán hàng thì đủng đỉnh dọn dẹp đến tối mịt.
Người Hà Nội cũ muốn mua bất cứ thứ gì mang tính dân dã, đến chợ
Bưởi là sẽ tìm thấy. Vậy nên chợ Bưởi nghiễm nhiên trở thành nơi thăm
thú của người yêu chim, thú họa cây cảnh khắp nơi trong Hà Nội. Đặc
biệt, những năm xa xưa, cứ đến ngày 29 Tết, chợ Bưởi còn có thêm một
nếp là mua trâu bò và giết mổ tại chợ rồi chia nhau ăn Tết,… Với nhiều
người, họ chỉ chờ đến phiên để được đi chơi chợ, chẳng mua, chẳng bán
gì, chỉ là thú vui lâu ngày thành quen không thể thiếu.
Có thể nói, chợ Bưởi là một trong những phiên chợ cổ, mang nhiều nét
văn hóa, gắn liền với mảnh đất Thăng Long - Hà Nội nhất, trở thành một
phiên chợ độc đáo, là nơi thăm thú của những người rảnh rỗi, nơi giao
lưu, gặp gỡ giữa những người làm vườn, người có thú chơi cây cảnh và
vật nuôi.