Những biến động theo chu kỳ trong chính sách tài khóa của chính phủ gây ra
bởi các sắc lệnh hiến pháp trong các cuộc bầu cử định kỳ xảy ra được mô tả thông qua
thuật ngữ chu kỳ kinh tế chính trị. Sự xuất hiện của những chu kì này là do hành vi cơ
hội của những người đương nhiệm trước khi bầu cử. Các chính trị gia trong chính phủ
thông qua việc thao túng có chiến lược trong các công cụ chính sách và đặc biệt là mở
rộng tài chính nhằm nỗ lực tạo ra các lợi thế kinh tế cho các cử tri. Nghiên cứu thực
nghiệm gần đây đã xác định thao tú ng có chiến lược các chính sách tài khóa trước khi
bầu cử, thay mặt Chính phủ, trong các nền dân chủ mới thành lập (Brender và
Drazen,2008). Một số các đặc điểm thể chế khác, như tham nhũng và không minh
bạch đã được kiểm định thực nghiệm và tìm thấy ý nghĩa thống kê trong việc giải thích
chu kỳ ngân sách chính trị và cũng có thể đúng cho những quốc gia có cơ chế chính trị
còn non trẻ. Dưới sự s áng tỏ của những phát hiện này, một câu hỏi được đặt ra là liệu
có là những công cụ khác ngoài chính s ách tài khóa có thể được áp dụng cho các thao
túng bầu cử trước cử tri mà không có rối loạn quá mức trong cân đối ngân sách của
chính phủ và nó có tồn tại trong nền dân chủ cũ hay không. Chúng tôi cho rằng quy
định kinh tế và các lợi ích kinh tế theo s au được tạo ra thông qua sự can thiệp của
chính phủ vào nền kinh tế có thể là một công cụ. Alesina et al (2008) cung cấp bằng
chứng yếu cho 21 quốc gia mà các cuộc cải cách xảy ra vào lúc bắt đầu của một nhiệm
kỳ mới, kết quả là nó bị giới hạn trong các lĩnh vực nhất định của nền kinh tế và không
liên hệ được với chu kỳ ngân sách chính trị. Họ gán các phát hiện của họ với hiệu ứng
tuần trăng mật trong cải cách những năm qua đã gặp sự phản đối mạnh mẽ. Trong bài
báo này, chúng tôi cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho 30 nền kinh tế OECD trong đó
xu hướng tổng thể tiến tới bãi bỏ quy định làm k iềm hãm các hoạt động kinh tế trong
những năm bầu cử và đ ó là sự lựa chọn mang tính chiến thuật của những nhà cầm
quyền
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chu kỳ kinh tế chính trị: Mối quan tâm về ngân sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐĐẠẠII HHỌỌCC KKINNHH TTẾẾ TTPP..HHCCMM
KKHHOOAA TTÀÀII CCHHÍÍNNHH DDOOAANNHH NNGGHHIIỆPP
--------
Chu kỳ kinh tế chính trị: Mối quan tâm về
ngân sách
GGiiááoo vviiêênn hhưướnngg ddẫnn :: PPGGSS..TTSS SSửử ĐĐììnnhh TT hh àànnhh
SSiinnhh vviiêênn tthhựựcc hhiiệệnn :: NNhhóómm 99
NNgguuyễễnn HHooàànngg TThhụụyy BBíícchh Trrââmm
NNgguuyyễễnn TThhàànnhh ÂÂnn
VVũũ TThhịị GGiiaanngg
PPhhaann TThhịị MMỹỹ HHiiềềnn
ĐĐỗỗ TThhàànnhh NNhhâânn
NNgguuyyễễnn HHữữuu NNhhâânn
LLêê ĐĐặặnngg HHuuỳỳnnhh NNhhưư
NNgguuyyễễnn QQuuaanngg SSơơnn
NNgguuyyễễnn HHooààngg NNhhậậtt TTâân
NNgguuyyễễnn TThhịị Thhùyy
LLớớpp :: CCaaoo HHọọcc NNggààyy 22
TP.HCM, 09/2012
Tóm tắt
Chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa bầu cử và các dạng điều hành k hác nhau
của 30 nền kinh tế OECD từ năm 1993 đến 2007. Chúng tôi tập trung vào các chỉ tiêu
điều hành bao gồm các ngành công nghiệp năng lượng, giao thông vận tải và thông tin
liên lạc mà có nhiều sự đóng góp của khu vực công. Chúng tôi chỉ ra bằng chứng cho
thấy rằng bầu cử có tác động tích cực đến những hoạt động điều hành tổng thể của các
lĩnh vực trên. Kết quả này được giải thích như là chiến lược thao túng trước bầu cử
trên danh nghĩa của các nhà cầm quyền. Lợi ích kinh tế được duy trì thông qua các tác
động tích cực đóng vai trò như các công cụ chính sách thay thế cho việc chuyển giao
tài khóa trước khi bầu cử. Những phát hiện trên là tồn tại và bền vững ngay cả ở các
quốc gia có thể chế dân chủ lâu đời nơi mà chu kỳ ngân sách chính trị ít có khả năng
xảy ra.
1. Giới thiệu:
Những biến động theo chu kỳ trong chính sách tài khóa của chính phủ gây ra
bởi các sắc lệnh hiến pháp trong các cuộc bầu cử định kỳ xảy ra được mô tả thông qua
thuật ngữ chu kỳ kinh tế chính trị. Sự xuất hiện của những chu kì này là do hành vi cơ
hội của những người đương nhiệm trước khi bầu cử. Các chính trị gia trong chính phủ
thông qua việc thao túng có chiến lược trong các công cụ chính sách và đặc biệt là mở
rộng tài chính nhằm nỗ lực tạo ra các lợi thế kinh tế cho các cử tri. Nghiên cứu thực
nghiệm gần đây đã xác định thao túng có chiến lược các chính sách tài khóa trước khi
bầu cử, thay mặt Chính phủ, trong các nền dân chủ mới thành lập (Brender và
Drazen,2008). Một số các đặc điểm thể chế khác, như tham nhũng và không minh
bạch đã được kiểm định thực nghiệm và tìm thấy ý nghĩa thống kê trong việc giải thích
chu kỳ ngân sách chính trị và cũng có thể đúng cho những quốc gia có cơ chế chính trị
còn non trẻ. Dưới sự sáng tỏ của những phát hiện này, một câu hỏi được đặt ra là liệu
có là những công cụ khác ngoài chính sách tài khóa có thể được áp dụng cho các thao
túng bầu cử trước cử tri mà không có rối loạn quá mức trong cân đối ngân sách của
chính phủ và nó có tồn tại trong nền dân chủ cũ hay không. Chúng tôi cho rằng quy
định kinh tế và các lợi ích kinh tế theo sau được tạo ra thông qua sự can thiệp của
chính phủ vào nền kinh tế có thể là một công cụ. Alesina et al (2008) cung cấp bằng
chứng yếu cho 21 quốc gia mà các cuộc cải cách xảy ra vào lúc bắt đầu của một nhiệm
kỳ mới, kết quả là nó bị giới hạn trong các lĩnh vực nhất định của nền kinh tế và không
liên hệ được với chu kỳ ngân sách chính trị. Họ gán các phát hiện của họ với hiệu ứng
tuần trăng mật trong cải cách những năm qua đã gặp sự phản đối mạnh mẽ. Trong bài
báo này, chúng tôi cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho 30 nền kinh tế OECD trong đó
xu hướng tổng thể tiến tới bãi bỏ quy định làm kiềm hãm các hoạt động kinh tế trong
những năm bầu cử và đó là sự lựa chọn mang tính chiến thuật của những nhà cầm
quyền. Hơn nữa chúng tôi kiểm định điều này có phải là do cơ chế chính trị còn non
trẻ và tác động của nền dân chủ như mô tả của Brender & Drazen (2008) hay không.
Kết quả của chúng tôi cho thấy sự kìm hãm các hoạt động kinh tế cũng có mặt trong
nền dân chủ đã được thành lập lâu đời một kết quả kiểm định giả thuyết những quy
định của chính phủ được xem như là một công cụ thay thế cho những thao túng trước
bầu cử.
Drazen & Eslava (2006) và Katsimi & Sarantides (2010) xem xét các hình thức
vận động bầu cử thông qua thao túng tài khóa mà không ảnh hưởng đến thâm hụt tổng
thể của quốc gia nhưng chủ yếu nhắm vào các thành phần chi tiêu của chính phủ. Các
chính trị gia có thể không làm như vậy để tránh sự trừng phạt trong bầu cử của những
cử tri. Như Drazen và Eslava (2006) cho rằng "chi tiêu ngân sách cho thịt lợn trong
'năm bầu cử như vậy có nghĩa là chính sách, pháp luật nhắm mục tiêu vào các nhóm cử
tri cụ thể để đạt được sự ủng hộ chính trị của họ và được xem như là một thành phần
đặc biệt quan trọng của việc thao túng trong bầu cử "(p.1). Họ phát triển một mô hình
tập trung vào các thao túng bầu cử thông qua các khoản chi tiêu mục tiêu của chính
phủ mặc dù họ đã xác định từ trước trường hợp các hành động pháp lý đặc biệt thiên
về ủng hộ cho một số nhóm lợi ích. Quy định đối với các hoạt động kinh tế là một ví
dụ của một hành động pháp lý đặc biệt mà chính phủ nhắm mục tiêu vào một nhóm cử
tri nào đó với chi phí của người khác. Quy định như một quá trình tạo ra lợi ích cho
một số ít với toàn bộ chi phí của toàn xã hội và không chỉ bằng ngân sách của chính
phủ. Blanchard & Giavazzi (2003) cho ví dụ liên quan đến lợi ích được tạo ra bởi quy
định sản xuất mà cả hai bên là nhà cầm quyền và liên đoàn lao động đều thích bởi vì
liên đoàn lao động là một trở ngại trong quá trình bãi bỏ quy định.
Hơn nữa, như Hillamn & Riley (1985) lập luận "chính sách của chính phủ có
thể tạo ra lợi ích và được bảo đảm, ví dụ các yếu tố đặc biệt trong ngành công nghiệp
được hưởng lợi từ sự bảo hộ của chính phủ, hoặc những nhà sản xuất đòi thặng dư sản
xuất là những người được hưởng lợi từ chính sách bảo hộ và điều chỉnh "(p.17). Mô
hình giới thiệu khái niệm định giá phần thưởng bất đối xứng (trong khái niệm tranh
dành lợi ích chính trị) của các đại lý cạnh tranh. Một giá trị lớn hơn cho phần thưởng
chính trị bởi hành động của người tham gia nào đó được xem như một rào cản gia
nhập cho những người tranh cử này chỉ nhận một giá trị thấp hơn cho nó. Vì vậy, theo
các tác giả các nhà cầm quyền có lợi thế rõ rệt hơn các ứng cử viên tiềm năng của họ.
M ột kết luận nổi bật quan trọng là " bảo vệ chuy ển giao thu nhập từ nhóm này sang
nhóm khác, và người thua cuộc từ một chính sách bảo hộ phải chịu một mất mát ngay
cả khi họ đã không hoạt động tích cực trong việc chống lại vận động hành lang của
những người hưởng lợi từ việc bảo hộ"(p.188). Nguyên do như vậy mà chu kì điều
1
chỉnh trong bối cảnh mô hình Drazen & Eslava (2006) không có thâm hụt tổng thể
1 Chu kỳ trong quy định là chỉ là một trong số lợi ích có thể được tạo ra trong
thời gian trước bầu cử. Thuế quan và hạn chế thương mại thay đổi theo chu kỳ bầu cử
có mặt trong các tài liệu như biến động chính sách theo chu kỳ
làm gia tăng vận động bầu cử. Trong bài báo này chúng tôi kiểm định sự tồn tại của
các hành vi thao túng trước bầu cử trong 30 nền kinh tế OECD cho giai đoạn 1991-
2007 bằng cách sử dụng một phương pháp tiếp cận dữ liệu bảng biến động. Chúng tôi
kiểm tra giả thuyết rằng quá trình bãi bỏ quy định làm kiềm hãm các hoạt động kinh tế
2
trong năm bầu cử do chính phủ sử dụng các kĩ thuật thao túng theo chiến lược .
2. Các nghiên cứu trước đây
Bài nghiên cứu này tập trung vào thuật ngữ chu kỳ ngân sách chính trị bắt
nguồn từ các tài liệu về chu kì kinh tế chính trị xuất hiện vào giữa những năm bảy
mươi. Các giả định trước đây của những tài liệu này là tác động của khái niệm bỏ
phiếu kinh tế. Đó là biến kinh tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định
của cử tri trước cuộc bầu cử. M ột số nghiên cứu thực nghiệm đã xác định rằng điều
kiện trước bầu cử này đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc bầu cử trong một loạt các quốc
gia. Kramer (1971) tập trung vào cuộc bầu cử quốc hội từ 1896 đến 1964 cho thấy
rằng tổng số phiếu bầu cử cho đảng cầm quyền bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tỷ lệ lạm
phát nhưng ảnh hưởng tích cực bởi tốc độ tăng trưởng thu nhập thực tế bình quân đầu
người. Stigler (1973) đặt vấn đề tính bền vững của những kết quả này cho cuộc bầu cử
quốc hội một lập luận được giải thích bởi Crain, Deaton và Tollison (1978) như là một
dấu hiệu cho thấy rằng các cử tri không chịu trách nhiệm trước đại biểu quốc hội về
hiệu suất kinh tế vĩ mô. Fair (1978) (được cập nhật trong Fair 1982, năm 1988) lập
luận rằng nếu một liên kết nhân quả giữa hiệu suất kinh tế và đảng cầm quyền được
thành lập thì điều này có thể được phát biểu trong bầu cử tổng thống3. Fair phát hiện ra
rằng những thay đổi trong GNP thực bình quân đầu người hoặc tỷ lệ thất nghiệp đã tác
động đến bầu cử tổng thống. Một số nghiên cứu khác đã mở rộng phân tích này cho
các quốc gia khác và đã chứng minh thực nghiệm rằng bầu cử theo lợi ích kinh tế
không chỉ xuất hiện trong cuộc bầu cử Mỹ. M adsen (1980) tìm thấy kết quả tương tự
cho các nước Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển và Đan Mạch), Lewis-Beck (1988) cho Anh,
Pháp, Tây Đức, Ý và Tây Ban Nha.
2 Alesina et al (2008) thông qua ước lượng GLS đã cung cấp bằng chứng yếu
(chỉ có 2 trong số 6 ngành theo nghiên cứu cho kết quả có ý nghĩa thống kê ở mức
10%) cho 21 quốc gia trong đó những cuộc cải cách diễn ra vào đầu m ột nhiệm kì mới.
Ông cho rằng kết quả này là do sự lo sợ rủi ro mất mát trong bầu cử vì kết quả của tự
do hóa hoặc cải cách tài chính bảo thủ.
3 Mueller (2003) kết luận sau khi có tính đến một số nghiên cứu thực nghiệm
rằng "kinh tế vĩ mô điều kiện chỉ ảnh hưởng đến công dân bỏ phiếu như thế nào khi
các công dân khá có thể giữ một người hoặc một bên chịu trách nhiệm về những điều
kiện "(p.437)
Chúng ta phải thừa nhận rằng hoạt động kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong
cuộc bầu cử đã cung cấp khuyến khích các chính trị gia sử dụng các chiến thuật để
thao túng nền kinh tế trước khi bầu cử. Việc thao túng như vậy có mục t iêu chính là
cải thiện phúc lợi của người dân và được xem như là một sản phẩm phụ làm tăng
cường khả năng tái tranh cử. M ô hình đầu tiên về chính trị cơ hội là của Nordhaus
(1975) và Lindbeck (1976). Trong mô hình Nordhaus, cũng như những mô hình gần
đây về chu kì kinh tế chính trị cơ hội, các công cụ chính sách được áp dụng là chính
sách tiền tệ và các điều kiện kinh tế có lợi cho cử tri được bắt nguồn thông qua khai
thác đường cong Phillips ngắn hạn. Đó là với những kỳ vọng về lạm phát quá khứ
những nhà cầm quyền cơ hội có động cơ kích thích nền kinh tế giả tạo bằng cách gây
ra một sự bùng nổ kinh tế trong giai đoạn trước bầu cử.
Các mô hình cơ hội của chu kỳ kinh tế chính trị thì dựa vào chính sách tiền tệ
đã được kiểm định thực nghiệm rộng rãi. Các nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm tra cả
hai công cụ chính sách và kết quả kinh tế với kết quả không đủ mạnh để hỗ trợ cho
mô hình này. M ột loạt các nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra sự tồn tại của PBC trong
hoạt động kinh tế thong qua đo lường GNP và biến động thất nghiệp ở Mỹ và các quốc
gia khác trước khi tới cuộc bầu cử. Alesina, Roubini và Cohen (1997) cung cấp một
bản tóm tắt các kết quả về sự thao túng tình trạng thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế và
kết luận rằng nghiên cứu thực nghiệm cho thấy thiếu bằng chứng thực nghiệm để ùng
hộ cho lý thuyết vì thế không có bằng chứng cho sự gia tăng các hoạt động kinh tế
trước bầu cử. Lewis-Beck (1988) và P aldam (1979) mở rộng phân tích ra bên ngoài
nước Mỹ một lần nữa không có kết quả có ý nghĩa để xác minh sự gia tăng trong hoạt
động kinh tế. Lạm phát sau bầu cử mà các mô hình dự đoán đã mở rộng mặc dù
thiếu tính phổ biến đem lại tính bền vững cho lý thuyết. Alesina et. al. (1997) tìm thấy
dấu hiệu của lạm phát cao hơn sau bầu cử ở các nước OECD và cho rằng lạm phát sau
bầu cử ở M ỹ là một hiện tượng có thể được nhận thấy trong cuộc bầu cử trước
năm 1979. Bằng chứng về các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với những phát hiện
về lạm phát sau bầu cử. Một số nghiên cứu đã điều tra cung tiền bằng cách
đo lường thay đổi về khối lượng M1. M ột lần nữa Alesina et. al. (1992) tìm thấy bằng
chứng như vậy cho 18 nền kinh tế OECD, Berger và Woitek (1997) cho Đức, và Allen
(1986) cho Mỹ. Grier (1989) và Beck (1987) đã đưa ra phản chứng lên sự gia t ăng
cung tiền M 1 và tranh luận rằng việc lựa chọn trong khoảng thời gian khảo sát thì
quan trọng đối với mức ý nghĩa thống kê của kết quả. Ông kết luận rằng việc thao túng
như vậy được thể hiện trong dữ liệu cho khoảng thời gian từ năm 1960 và 1980.
Fransese (2006) đã quy kết cho việc thiếu các bằng chứng thực nghiệm để hỗ trợ các ý
tưởng của PBC trong kết quả thực được xem như là một bằng chứng cho thấy các nhà
chính trị ưu tiên cho chính sách mục tiêu và đúng thời điểm (của những nhà ầm quyền
đối với cử tri) chính sách có thể thao túng được (của những nhà cầm quyền), rõ ràng
(cho cử tri) và có thể quy kết (bởi cử tri đối với người đương nhiệm) (p.549).
Các thiếu sót về thực nghiệm trong nghiên cứu về các thao túng hoạt động tiền
tệ để tăng cường khả năng tái tranh cử kết hợp với việc xác định rằng các chính trị gia
ưu ái cho các chính sách nhắm mục tiêu và rõ ràng được kết hợp với việc thao túng
chính sách tài khóa tạo ra chu kỳ kinh tế theo sự biến động chính trị. Tufte (1978) xác
định một số rắc rối của các thao tác mang tính cơ hội trong các chính sách tài khóa
trước bầu cử. Theo Tufte những chính sách này bao gồm chuy ển giao tài khóa trong
thanh toán an sinh xã hội, phúc lợi cựu chiến binh, thuê mướn hay sa thải công, tăng
chi tiêu, trì hoãn cắt giảm. Trái ngược với các mô hình trước của chu kỳ kinh doanh
chính trị mang tính cơ hội, nay đường cong Phillips trở nên không thích hợp khi lợi ích
kinh tế của những cử tri cũng được được cải thiện thông qua chuyển giao tài chính trực
tiếp và nhắm mục tiêu đến anh ta. Thuật ngữ chu kỳ ngân sách chính trị được dùng để
mô tả biến động mang tính chu kỳ trong các chính sách tài khóa
và được xem như là một phần của chu kỳ bầu cử.
Rogoff và Sibert (1988) mở rộng mô hình chu kỳ kinh tế chính trị mang tính cơ
hội ban đầu cho các cử tri lý trí. Các mô hình lựa chọn đối nghịch, họ thể hiện dựa trên
giả định rằng mỗi ứng cử viên đều biết mức năng lực của anh ta (thấp hoặc cao).
Thông tin này là bất đối xứng vì những cử tri không biết được điều này và kỳ vọng
hợp lý đối với ứng cử viên được đánh giá dựa trên quan sát kết quả chính sách tài
khóa. Trước bầu cử úng viên có năng lực cao thường phát ra tín hiệu về khả năng của
họ bằng cách tham gia vào mở rộng chính sách tài khóa. Cử tri nhận ra mức độ năng
lực cao, vì thông qua những chính sách như vậy thì tốn kém nhiều chi phí hơn những
ứng cử viên có năng lực thấp, và phần thưởng dành cho họ là bằng cách bỏ phiếu ủng
hộ. Rogoff (1990) lập luận rằng năng lực ra tín hiệu cũng có thể đạt được bằng cách
thao túng các thành phần chi tiêu chính phủ. Đó là bằng cách thay đổi chi tiêu chính
phủ hướng tới thiết lập các chính sách đáng chú ý. Chuyển giao trực tiếp và chi tiêu
tiêu dùng thường có kết quả ngay lập tức nên nó trở thành các chính sách được yêu
thích của các chính trị gia có năng lực, hơn là đầu tư và những chính sách khó quan sát
và cần nhiều thời gian để phát huy tác dụng. M ặc dù có thể xảy ra lạm phát sau bầu cử,
xuất phát từ việc mở rộng tài khóa, cử tri có lý trí sẽ phản ứng với những thao túng
như vậy, vì vẫn còn tốt hơn là bầu cho người có năng lực về quản lý nền kinh tế.
M ặc dù các yếu tố mới mà các mô hình nói trên đã kết hợp vào, đó là tính lý trí
của cử tri và hành vi mang tính chiến lược của các chính trị gia và toàn bộ cử tri, hạn
chế nhất định về mặt lý thuyết được xác định. Cả Shi & Svensonn (2003) và Draze
(2000) đều phân biệt điểm nổi bật nhất của những mô hình dự đoán của một nền kinh
tế bị bóp méo bởi các chính trị gia tài năng. Hơn nữa, chỉ có anh ấy sẽ được bầu lại.
Nhưng bên cạnh những câu hỏi lý thuyết, một hạn chế nghiêm trọng về nghiên cứu
thực nghiệm được thực hiện là bổ sung thông tin của các nhà chính trị cũng cần thiết
đưa vào để kiểm tra tính dự báo của các mô hình.
Những hạn chế này đã được giải quy ết thông qua một loạt các mô hình dựa trên
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Persson & Tabellini (2000) và Shi &
Svensson (2002) giới thiệu các mô hình như vậy để phân biệt các mô hình này với từ
các mô hình lựa chọn đối nghịch trước đó với hai vấn đề lớn. Thứ nhất mặc dù mỗi
chính trị gia đều có năng lực riêng, người ta cho rằng năng lực này không quan sát
được kể cả toàn bộ cử tri và các chính trị gia đương thời. Thứ hai là các mô hình mới
đưa ra phạm vi cho các hành động chính sách tài chính ẩn mà cử tri không thể quan sát
được ngay lập tức. Vì vậy, các nhà cầm quyền có thể thay thế những người thiếu năng
lực bằng cách các công cụ thao túng chính sách nhằm phát tín hiệu cho anh ta. Ví dụ
vay mượn trước bầu cử và tăng chuyển giao tài khóa và cung cấp hàng hóa công như
một công cụ làm tăng thu nhập trong hoạt động kinh tế. Cuộc bầu cử diễn ra sau khi
kết hợp các nỗ lực chìm của người đương nhiệm và cuộc sống trở nên sung túc hơn là
kết quả của chính sách tài khóa. Trong trạng thái cân bằng và mặc dù thực tế cử tri biết
ý định của những nhà cầm quyền và động cơ cho các thao túng, vay mượn quá mức có
thể được thể hiện như là sự gia tăng thâm hụt ngân sách trong thời gian trước khi bầu
cử. Sự khác biệt đáng chú ý liên quan đến nghiên cứu thực nghiệm đó là sự tiên đoán
của mô hình cho rằng sự thao túng tài khóa và sử dụng các công cụ chính sách liên
quan không bị giới hạn bởi các ứng cử viên có thẩm quyền cấp độ cao nhưng có thể
được sử dụng bởi tất cả các loại của các chính trị gia.
Các kết quả thực nghiệm ủng hộ chu kỳ kinh tế chính trị không được tin cậy với
các kết quả ít có ý nghĩa thông kê và nói chung là thao túng tiền tệ tác động đến kinh
tế thực thì không có mặt trong dữ liệu dưới sự kiểm định của mô hình. Mặt khác,
nghiên cứu thực nghiệm về chu kỳ ngân sách chính trị đã hiểu rõ trong nhiều năm qua,
với sự trợ giúp đỡ đắc lực của các kỹ thuật kinh tế lượng tiên tiến đã đưa ra các kết quả
bền vững và có ý nghĩa thống kê cho thấy sự hiện diện của các thao túng tài khóa
trước bầu cử dưới hình thức tăng thâm hụt ngân sách.
Tufte (1978) đưa ra bằng chứng đầu tiên về sự thao túng chính sách tài khóa
trong bối cảnh chuyển giao trực tiếp. Frey & Schneider (1978a 1978b) đưa ra một số
bằng chứng kinh tế lượng đầu tiên về sự gia tăng chi tiêu chính phủ trước khi bầu cử
cho cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Đối với Keech & Pak (1989) tìm thấy chu kỳ bầu
cử trong các khoản chuyển giao cựu chiến binh nhưng chỉ trong một khoảng thời gian
giữa năm 1961 và năm 1978 và Alesina (1988) thông qua hồi quy OLS kết luận rằng
có sự tồn tại của chu kỳ bầu cử trong khoản chuy ển giao ròng tương đối so với GNP
cho giai đoạn 1961 đến 1985. Bằng chứng về sự thao túng như vậy cũng là kết quả của
nhiều nghiên cứu ở một số quốc gia riêng rẽ. Krueger & Turan (1993) tìm thấy bằng
chứng về các thao túng tài khóa trước bầu cử cho Thổ Nhĩ Kỳ trong những năm từ
1950 đến 1980, Gonzalez (2002) nhận thấy kết quả tương tự về chu kỳ trong chi tiêu
chính phủ của Mexico cho giai đoạn 1958-1997.
M ột lần nữa các nghiên cứu về chu kỳ ngân sách chính trị ở cấp độ đa quốc gia
có kết quả ủng hộ chiến lược mở rộng tài chính trước bầu cử thay mặt cho người
đương nhiệm. Ames (1987) đưa ra bằng chứng ủng hộ về sự gia tăng chi tiêu chính
phủ ở 17 quốc gia Americal Latin. Block (2002) đã khẳng định chính sách mở rộng tài
khóa cho 44 nước Châu Phi tiểu sa mạc Sahara4. Schuknecht (1996) đã tìm thấy kết
quả tương tự về chu kỳ tài khóa cho 35 nước đang phát triển. Ông nhấn mạnh rằng cơ
chế yếu kém và ít có sự kiểm tra và cân bằng cho thao túng tài chính ở quốc gia đang
phát triển. Sự khác biệt về độ lớn của chu kỳ tài khóa cũng như sự khác biệt lớn ở các
quốc gia hoặc nhóm các quốc gia tr