Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” thường được hiểu là những đơn vị
của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian thấp
và thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa phương
đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập với cơ cấu
tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không cần sự phân cấp thẩm quyền
từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước có cơ cấu nhà
nước đơn nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của mình theo
nguyên tắc quyền lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền Trung ương trực
tiếp ủy nhiệm, và cấp trung ương có thể bãi bỏ việc ủy nhiệm đó. Tại một số
nước thuộc hệ thống đơn nhất khác, chính quyền địa phương hoạt động theo
nguyên tắc thẩm quyền chung, và trên nguyên tắc được phép thực thi những
thẩm quyền không thuộc chính quyền Trung ương.
10 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 18682 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương ở Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
CƠ SỞ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH KHU VỰC MIỀN TRUNG
TIỂU LUẬN
Môn: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Tên tiểu luận:
“Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương
ở Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động”
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Võ Kim Sơn
Học viên: Lê Thị Kiều Thúy
Lớp: Cao học hành chính công 16M
Huế, tháng 8 năm 2012
1
MỤC LỤC
Trang số
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. KHÁI NIỆM CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM 3
1. Khái niệm chung
2. Khái niệm chính quyền địa phương trong các văn kiện Đảng
II. CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM 4
1. Ủy ban Nhân dân cấp xã
2. Ủy ban Nhân dân cấp huyện
3. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh
III. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG VIỆT NAM
5
1. Vai trò chính quyền địa phương
2. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam
IV. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM
6
1. Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương
Việt Nam
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phương thức hoạt động
KẾT LUẬN 9
2
LỜI MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” thường được hiểu là những đơn vị
của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian thấp
và thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa phương
đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập với cơ cấu
tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không cần sự phân cấp thẩm quyền
từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước có cơ cấu nhà
nước đơn nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của mình theo
nguyên tắc quyền lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền Trung ương trực
tiếp ủy nhiệm, và cấp trung ương có thể bãi bỏ việc ủy nhiệm đó. Tại một số
nước thuộc hệ thống đơn nhất khác, chính quyền địa phương hoạt động theo
nguyên tắc thẩm quyền chung, và trên nguyên tắc được phép thực thi những
thẩm quyền không thuộc chính quyền Trung ương.
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa
phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước
thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân
địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ
sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật nhằm quản
lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích
chung của cả nước.
Với nội dung tiểu luận “Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương ở
Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động”, tôi mong muốn góp
phần làm rõ hơn về cơ cấu chính quyền địa phương tại Việt Nam, từ đó đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay./.
3
I. KHÁI NIỆM CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM:
1. Khái niệm chung
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phái sinh từ khái niệm hệ
thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng khá phổ
biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm được sử
dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống thực tế xã hội,
tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm
chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối quan hệ và cơ chế
hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ góc độ nghiên cứu lý
luận, từ góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các nhà
khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào 3 quan niệm như sau:
a. Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đóng trên địa bàn địa phương
b. Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan – cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương (Uỷ ban nhân dân)
c. Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng với 4
phân hệ cơ quan nhà nước tối cao ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Toà án
Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân các
cấp) và cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân các cấp).
2. Khái niệm chính quyền địa phương trong các văn kiện
Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm chính
quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của hai cơ quan là
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VIII) ngày 18 tháng 6 năm 1997 tại phần III, mục 4 về
tiếp tục cải cách hành chính nhà nước đối với chính quyền địa phương chỉ đề
cập tới việc kiện toàn củng cố Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp
và hướng cải cách tổ chức và hoạt động của hai cơ quan này mà không đề cập
4
tới các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa
phương. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở
3 cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
a. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
b. Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện)
c. Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã)
II. CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM
1. Ủy ban Nhân dân cấp xã
Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, phường.
Ủy ban Nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất
ở Việt Nam. Ủy ban Nhân dân cấp xã có từ 4 đến 5 thành viên, gồm Chủ tịch, 2
Phó Chủ tịch, 1 ủy viên quân sự và 1 ủy viên công an. Người đứng đầu Ủy ban
Nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân do do Hội đồng Nhân dân của xã,
thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân xã, thị trấn hay phường sẽ đồng thời là một Phó Bí thư
Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó. Ủy ban Nhân dân cấp xã hoạt động
theo hình thức chuyên trách và không chuyên trách.
Bộ máy giúp việc của Ủy ban Nhân dân cấp xã có các công chức; Tư
pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Tài chính - Kế toán, Văn phòng - Thống
kê, Văn hóa - Xã hội, Chỉ huy Trưởng quân sự, Trưởng công an.
2. Ủy ban Nhân dân cấp huyện
Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố trực
thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban Nhân dân cấp huyện có từ 9 đến 13 thành viên, gồm
Chủ tịch, 2-3 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Thường trực Ủy ban Nhân dân cấp
huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu Ủy
ban Nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, trên danh nghĩa là do
Hội đồng Nhân dân huyện sở tại lựa chọn. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân huyện sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy.
5
Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông
thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng UBND, Phòng Tài chính -
Kế hoạch, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên - Môi
trường, Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Văn hóa - Thông tin, Phòng
Dân tộc, Phòng Y tế, Thanh tra huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Văn hóa - thông
tin, Phòng Nội vụ, Ban Quản lý các Dự án đầu tư và Xây dựng cơ bản. Một số
cơ quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi cục Thống kê, Huyện đội,
Công an huyện, v.v... không phải là cơ quan của chính quyền địa phương cấp
huyện mà là cơ quan của chính quyền Trung ương đặt tại huyện (đứng chân trên
địa bàn huyện).
3. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh
Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực Ủy
ban Nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký.
Người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.
Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử
theo hình thức bỏ phiếu.
III. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG VIỆT NAM
1. Vai trò
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với tư
cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa
phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên
lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ
Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa
phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương
nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Vai trò như vậy
6
của chính quyền địa phương được thể hiện tập trung về nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của bộ máy nhà nước
nói chung. Trong đó, tập trung thống nhất là yếu tố có tính chủ đạo. Tư tưởng cơ
bản trong tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc đó là vừa bảo đảm sự
tập trung thống nhất, vừa phát huy vai trò chủ động tích cực của địa phương.
2. Mô hình:
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam thể hiện trên hai điểm
cơ bản sau:
- Mỗi đơn vị hành chính thành lập hai loại cơ quan là Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân.
- Giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương và giữa các
cấp chính quyền địa phương không có tính độc lập cao, tuy rằng trong quá trình
cải cách bộ máy nhà nước đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho các cấp chính
quyền địa phương. Nguyên tắc cơ bản và hàng đầu trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy chính quyền địa phương là tập trung dân chủ. Đây là điểm rất đáng
chú ý trong tổ chức chính quyền địa phương nước ta. Nó chứng tỏ rằng, chính
quyền địa phương Việt Nam không có “chủ quyền” trong việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Quy định ở Điều 7 của Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân thể hiện rõ hơn này khi ghi nhận trong hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân cấp xã có sự
chỉ đạo trong quản lý nhà nước từ trên xuống dưới. Đây chính là điểm khác về
bản chất so với chính quyền địa phương tự quản.
Do đó, có thể gọi là mô hình chính quyền địa phương nước ta là mô hình
chính quyền địa phương tập trung dân chủ.
IV. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1. Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương Việt Nam
Thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, đẩy mạnh phân cấp cho các cấp
chính quyền địa phương, các văn bản pháp luật liên quan đến chính quyền địa
7
phương được ban hành những năm vừa qua đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan chính quyền địa phương ở mỗi cấp.
Những giải pháp cụ thể của Luật như tăng cường cơ cấu tổ chức của
HĐND hay giảm số thành viên của UBND cấp xã, tăng cường chức năng giám
sát của HĐND hay tăng cường nguyên tắc tập thể trong hoạt động của UBND…
“không đủ tầm để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương”.
Vì thực tế, HĐND hoặc không sử dụng hết quyền năng của mình, các kỳ họp
chính thức, hiệu quả giám sát, thảo luận không cao hoặc có xu hướng “vượt rào”
muốn giao nhiều thẩm quyền hơn song lại không thực sự kiểm soát được UBND
một cách chặt chẽ.
Nhìn tổng thể, cho đến nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình chính
quyền địa phương là “cánh tay nối dài” của nhà nước TƯ. Mô hình này bảo đảm
được tính thống nhất cao độ nhưng không thực sự phát huy được tính sáng tạo,
chủ động của địa phương.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phương thức hoạt động
- Phân cấp cho chính quyền địa phương cần đồng bộ, thẩm quyền đi đôi
với trách nhiệm, phân cấp nhưng vẫn phải đảm bảo sự quản lý tập trung, thống
nhất của chính quyền TƯ, phân cấp đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám
sát của TƯ, với việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính
quyền địa phương.
- Phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo
hướng phân cấp mạnh và rõ hơn cho địa phương, để chính quyền địa phương
chủ động sáng tạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Nhưng quan trọng vẫn phải
đảm bảo sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của TƯ, không để chính
quyền địa phương “muốn làm gì thì làm, và phải tự chịu trách nhiệm về quyết
định của mình”. Đó cũng là mô hình để “người dân tự quyết định các vấn đề của
địa phương mình trên cơ sở pháp luật nên không sợ mỗi địa phương thành khu
tự trị”…
- Cần có sự phân biệt Chính quyền địa phương giữa các vùng lãnh thổ,
giữa nông thôn và thành thị; căn cứ vào đặc điểm, tình hình, nguồn lực của từng
8
địa phương mà quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở các
điều kiện thực tế;
- Đẩy mạnh kiện toàn cơ quan Thường trực HĐND và các Ban của
HĐND ở cả ba cấp để bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động;
bố trí Trưởng ban, Phó Trưởng ban HĐND cấp tỉnh và Trưởng ban HĐND cấp
huyện hoạt động chuyên trách;
- Mạnh dạn phân cấp, phát huy vai trò quyết định và khả năng chịu trách
nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nguồn lực, ngân sách, biên chế cho
CQĐP; giao đủ thẩm quyền và tạo cơ chế bảo đảm thực quyền của HĐND các
cấp nhưng đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
- Nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản mới, sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật hiện hành bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, nhất là các
nội dung liên quan đến thẩm quyền quyết định của HĐND và UBND, tạo điều
kiện thuận lợi để HĐND, UBND thực thi đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, đạt chất
lượng cao và có hiệu lực, hiệu quả./.
9
KẾT LUẬN
Hệ thống Chính quyền địa phương có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Trong nhiều năm qua, vấn đề đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của Chính quyền địa phương đã được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, một số chủ trương lớn đã được đặt ra và tổ chức thực
hiện như: chủ trương cải cách hành chính (về cả 4 nội dung: thể chế; thủ tục
hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức; tài chính công); phân cấp mạnh cho
CQĐP trên một số lĩnh vực; thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận,
phường… đã đạt một số kết quả nhất định, tuy nhiên việc tiếp tục nghiên cứu
đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Chính quyền địa
phương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước và phát triển kinh tế - xã hội là luôn cần thiết, để tiếp tục đưa ra phương
hướng, giải pháp hợp lý cho chính quyền địa phương Việt Nam hiện nay.