V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, không có bộ máy nhà nước (BMNN), chúng ta sẽ tiêu
vong và không làm cho BMNN hoạt động ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn, thì chúng ta
cũng sẽ tiêu vong trước khi xây dựng được cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, tổ chức
BMNN và việc củng cố, hoàn thiện BMNN sao cho ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn là vấn
đề vô cùng quan trọng đối với mỗi nhà nước nói chung, đối với Nhà nước ta hiện nay nói
riêng. Cơ cấu tổ chức BMNN với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó luôn được
quy định chặt chẽ trong hiến pháp và cũng có thể khẳng định, nội dung quan trọng nhất của
các bản hiến pháp chính là những quy định về BMNN.
Trong phạm vi đề tài, với những kiến thức đã được học tập, nhất là từ việc nghiên cứu cơ
cấu tổ chức bộ máy của chính quyền Trung ương(TW) và địa phương, tôi xin được rút ra
và khuyến nghị một số vấn đề về tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính của nước
ta trong tình hình mới.
10 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2454 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ cấu tổ chức của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHÍNH
QUYỀN TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Người thực hiện: Hoàng Thị Thu Hương
Huế, tháng 8 năm 2012
MỞ ĐẦU
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, không có bộ máy nhà nước (BMNN), chúng ta sẽ tiêu
vong và không làm cho BMNN hoạt động ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn, thì chúng ta
cũng sẽ tiêu vong trước khi xây dựng được cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, tổ chức
BMNN và việc củng cố, hoàn thiện BMNN sao cho ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn là vấn
đề vô cùng quan trọng đối với mỗi nhà nước nói chung, đối với Nhà nước ta hiện nay nói
riêng. Cơ cấu tổ chức BMNN với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó luôn được
quy định chặt chẽ trong hiến pháp và cũng có thể khẳng định, nội dung quan trọng nhất của
các bản hiến pháp chính là những quy định về BMNN.
Trong phạm vi đề tài, với những kiến thức đã được học tập, nhất là từ việc nghiên cứu cơ
cấu tổ chức bộ máy của chính quyền Trung ương(TW) và địa phương, tôi xin được rút ra
và khuyến nghị một số vấn đề về tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính của nước
ta trong tình hình mới.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHÍNH QUYỀN TRUNG
ƯƠNG, CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP DƯỚI VÀ CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG:
Qua nghiên cứu hai chương về cơ cấu tổ chức bộ máy của chính quyền Trung ương và cơ
cấu tổ chức của chính quyền cấp dưới và chính quyền địa phương bản thân rút ra được một
số vấn đề cơ bản sau:
1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của chính quyền Trung ương:
- Hình thức chính quyền phải tuân theo các chức năng của nó. Mục đích của tổ chức nàylà
nhằm phân bổ các nhiệm vụ của chính quyền để chúng có thể thực hiện một cách có hiệu
quả và kinh tế, giảm thiểu sự trùng lặp và chồng chéo. Điều quan trọng là phải xác định rõ
lĩnh vực thẩm quyền và trách nhiệm của các đơn vị hành chính để chúng có thể chịu sự
kiểm soát chính trị và hiến pháp một cách thích hợp.
- Ủy quyền cho cán bộ, nhất quán với thẩm quyền và trách nhiệm của các bộ nhằm
khuyến khích tính mềm dẻo và khả năng ứng phó với các chính sách mới và diễn biến của
sự việc.
- Phân chia công việc theo bốn nguyên tắc: lĩnh vực quản lý, đối tượng liên quan, quy
trình áp dụng và chức năng được thực hiện.
- Việc phân nhóm chức năng theo bốn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của việc nhóm:
không phân mãng, không chồng lấn, tầm kiểm soát và tính thuần nhất.
- Việc phân bổ các chức năng cho các bộ và việc lựa chọn số lượng các bộ liên quan đến
ba vấn đề có mối quan hệ với nhau đó là:
+ Chức năng đó quan trọng như thế nào;
+ Làm thế nào để nhóm các chức năng; và
+ Nên có hình thức kiểm soát nào của chính quyền trung ương.
- Viêc xác định số lượng và các loại bộ thì phải dựa vào tình hình thực tế của mỗi quốc
gia và cần phải ăn khớp với các yêu cầu của việc quản lý chính trị. Số lượng các bộ không
thể quá lớn cũng không thể quá ít. Cần xác định hệ thống thứ bậc một cách tương đối để
tránh tình trạng sẽ dẫn đến việc cạnh tranh lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh vị trí giữa các bộ.
- Nói chung, khi cơ cấu tổ chức của chính quyền trung ương không được kiểm tra đánh
giá trong khoảng thời gian hơn mười năm thì cần phải xem xét lại một cách hệ thống các
chức năng và tổ chức bộ máy.
- Các nước thành lập các cơ quan điều tiết vì rất nhiều lý do khác nhau, tùy thuộc vào yêu
cầu cấp thiết của từng thời điểm cụ thể.
- Các cơ quan điều tiết có thể cung cấp dịch vụ trong khi vẫn theo đuổi các mục tiêu điều
tiết của mình.
- Ở các nước khác nhau thì quyết định của cơ quan điều tiết có những tác động khác nhau.
Có nước thì các quyết định này có giá trị ràng buộc đối với chính phủ, có nước thì không.
- Các cơ quan điều tiết hoạt động theo các cách thức khác nhau tùy thuộc vào chức năng
của mình. Ví dụ, các quyết định của cơ quan bảo vệ môi trường thường áp dụng chung chứ
không cụ thể đối với cá nhân hoặc nhóm nào đó.
- Các phương án điều tiết “mạnh mẽ” và “nhẹ nhàng” có thể “dựa mạnh vào thiết chế” và
“ít dựa vào thiết chế”.
- Cần xác định những ảnh hưởng của khuôn khổ điều tiết đối với việc quản lý khu vực
công và hoạt động kinh tế .
2. Cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp dưới và chính quyền địa phương:
- Chính quyền cấp dưới có những thẩm quyền về pháp lý và hành chính khác nhau cùng
những nguồn lực khác nhau để thực hiện những thẩm quyền đó.
- Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp dưới có thể do hiến pháp hoặc do các văn
bản của chính quyền trung ương quy định. Mức độ tự chủ của chính quyền cấp dưới được
bảo vệ cao hơn.
- Các cơ cấu chính quyền cấp dưới là rất khác nhau tùy thuộc vào hệ thống chính trị, tùy
thuộc vào tình hình lịch sử của từng giai đoạn.
- Quyền tự trị của chính quyền cấp dưới có thể được trao quyền tự trị hoàn toàn và được
cơ quan dân cử ở địa phương giám sát cũng có thể là các cơ quan trực thuộc chính quyền
trung ương, do chính quyền trung ương thành lập. Nhìn chung là tùy thuộc vào ảnh hưởng
chính trị của mỗi quốc gia.
- Đối với các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi thì cần giao quyền tự chủ cho chính
quyền địa phương nhưng phải có sự giám sát của chính quyền trung ương.
- Quản lý nông thôn rất quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của người dân. Vì vậy
cần phải có một cơ cấu tổ chức hiệu quả cho quản lý nông thôn.
- Các thành phố quy mô lớn và các khu vực trung tâm cần phải thiết lập cơ cấu chính
quyền riêng biệt và thiết lập thiết chế tự trị khu vực giám sát các hội đồng địa phương.
Nhìn chung, việc cơ cấu tổ chức bộ máy của chính quyền cấp dưới và chính quyền cấp
địa phương thì cần xét về quy mô, mức độ, tình hình cụ thể của từng địa phương và không
thể không dựa vào môi trường chính trị của mỗi quốc gia. Cần phân định rõ thẩm quyền và
trao quyền tự chủ nhưng phải có sự giám sát.
II. THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NƯỚC TA HIỆN
NAY:
1. Chính quyền trung ương :
Theo điều 109 Hiến pháp năm 1992 “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, KT-XH QPAN và đối
ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ TW đến cơ sở; bảo đảm
việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ. Chính phủ gồm Thủ tướng, các phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc hội
quyết định.
Số lượng và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng đã
có sự thay đổi nhiều lần phù hợp với điều kiện và tình hình đất nước qua các thời kỳ. Sau
khi đất nước độc lập, tại kỳ họp Quốc hội khoá I ngày 03/11/1946 đã quyết định thành lập
Chính phủ gồm 14 bộ, quá trình cải cách đã thành lập mới, giải thể và đổi tên một số bộ đến
năm 1955 Chỉnh phủ gồm 17 bộ. Sau thời kỳ đổi mới, bộ máy hành chính trung ương đã có
nhiều cải cách, thay đổi, đến Đại hội X ( 2002 - 2006 ) bộ máy được sắp xếp tổ chức lại
gồm 26 bộ, cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ. Hiện nay để phù hợp với điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, bộ máy tiếp tục được điều chỉnh, cơ cấu lại tổ
chức, hiện còn 18 bộ 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
2. Chính quyền địa phương :
Chính quyền địa phương ở nước ta được quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND
gồm HĐND và UBND các cấp và bộ máy giúp việc là các Sở, ngành (cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc TW) ; các phòng, ban ( cấp huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh) ; các
định xuất cán bộ và bộ máy giúp việc( cấp xã, phường, thị trấn).
Chính quyền địa phương ở nước ta được tổ chức thành 3 cấp, gồm: cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ( gọi chung là cấp tỉnh), cấp huện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh(
gọi chung là cấp huyện) và cấp xã, phường, thị trấn( gọi chung là cấp xã).
Cơ cấu tổ chức các sở, ngành cấp tỉnh, các phòng ban cấp huyện là nội dung quan trọng
trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Cùng với việc sắp xếp kiện toàn bộ máy
chính quyền trung ương, bộ máy các sở, ngành, phòng, ban của chính quyền địa phương đã
được nhiều lần sắp xếp tổ chức lại theo hướng ngày càng giảm dần đầu mối, phân công lại
hợp lý hơn. Theo NĐ 13/NĐ-CP/2008, cấp tỉnh có 18 sở, ngành; theo NĐ14/NĐ-CP/2008,
cấp huyện có 12 phòng ban. Đây được đánh giá là một bước tiến bộ về cơ cấu tổ chức bộ
máy chính quyền địa phương, tinh gọn hơn, giảm được sự cồng kềnh, nặng nề nhưng kém
hiệu quả của bộ máy trước đây.
3. Một số ưu điểm và hạn chế trong quá trình đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy hành
chính ở nước ta :
3.1. Những ưu điểm nổi bật :
Bộ máy hành chính nước ta đã qua nhiều lần sắp xếp,đổi mới, kiện toàn, đặc biệt sau 5
năm thực hiện Nghị quyết TW4, 5 có những ưu điểm nổi bật như sau :
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy theo hướng tinh, gọn. Số
lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, lề lối làm việc được quy định cụ thể hơn,
đã có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng hơn. Chức năng, nhiệm vụ các bộ,
cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc phục cơ bản sự trùng lắp, dẫm đạp; các bộ
được tổ chức theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã hoạt động ổn định, cơ chế phối
hợp tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên, phân biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà
nứơc và quản lý sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt động các đơn
vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một bước về trình độ lý
luận chính trị, học vấn ,chuyên môn nghiệp vụ. Đa số cán bộ công chức giữ gìn phẩm chất
chính trị và đạo đức, lối sống, thích ứng dần với cơ chế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế.
Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
3.2. Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu :
- Tổ chức của một số nhà nước chưa thực sự tinh, gọn, hiệu quả. Việc thành lập các tổng
cục, cục thuộc tổng cục nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý sâu chuyên ngành, nhưng chức
năng, nhiệm vụ , cơ chế phối hợp,quy chế làm việc chưa đủ rõ nên hiệu lực, hiệu quả hoạt
động chưa cao; chức năng đại diện chủ sở hữu còn trùng lặp, chưa rõ trách nhiệm; cải cách
hành chính có tiến bộ nhất định, nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật pháp chưa phân định thật rõ chính quyền đô thị
và chính quyền nông thôn, chưa phản ánh hết đặc điểm của chính quyền đô thị, nhất là các
đô thị lớn, kinh tế- văn hoá- xã hội phát triển nhanh. Việc xác định chức năng tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà
nước, quản lý của chủ sở hữu của các bộ, các địa phương còn nhận thức khác nhau, có nhiều
sơ hở, hiệu quả thấp.
- Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, biên chế một số bộ máy vẫn có xu hướng
tăng lên nhưng chất lượng cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.Việc đào tạo theo chức
danh cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế; cơ cấu và chất lượng cán bộ, công chức còn bất
cập. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ
nhân dân.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TIẾP TỤC HOÀN
THIỆN CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC:
Như trên đã nói, trong quá trình đổi mới, kiện toàn bộ máy nhà nước nói chung, chính
quyền nói riêng, chúng ta đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn
nhiều khuyết điểm và tồn tại, do vậy cần thiết và khách quan phải tiếp tục đổi mới để hoàn
thiện. Việc hoàn thiện bộ máy HCNN đặt ra phải giải quyết nhiều vấn đề, trong giới hạn
của bài và khả năng hạn chế của mình, tôi xin được nêu một số vấn đề từ việc nghiên cứu
tài liệu và bài giảng của thầy cũng như một số hiểu biết từ thực tế liên quan đến cơ cấu tổ
chức chính quyền trung ương và địa phương như sau:
1. Cần thấy được những vấn đề chủ yếu chi phối việc tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ
máy HCNN :
Theo tôi, trước hết là phải đổi mới về nhận thức và tư duy về vai trò, chức năng của nhà
nước và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
1.1- Đổi mới tư duy về nhà nước, về vai trò, chức năng của bộ máy nhà nước :
Nhà nước có vai trò như thế nào, Nhà nước có thể làm gì và không thể làm gì, đâu là giới
hạn của quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với kinh tế, xã hội, dân sự và với cá nhân
công dân; Nhà nước cần phải được tổ chức lại như thế nào để hiệu quả nhất, để có lợi ích
nhất cho sự thịnh vượng của quốc gia, dân tộc, cho sự phát triển của mỗi cộng đồng và tự do
cho mỗi công dân...
Ở Việt Nam, trong điều kiện hiện nay sẽ không thể có sự ổn định chính trị, sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững mà không có một bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động
hiệu quả. Thực tiễn phát triển đã và đang chỉ ra rằng, một Nhà nước hiệu quả chứ không
phải một Nhà nước tối thiểu là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tư duy lại là vai trò của Nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta cần đổi mới nhận
thức trên những vấn đề cơ bản sau:
- Nhà nước là một thiết chế chính trị trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi
lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, dù vai trò
của Nhà nước quan trọng, to lớn đến nhường nào, cũng không thể là một Nhà nước toàn trị,
quyết định mọi vấn đề và bao cấp toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước luôn có giới hạn trong
mối quan hệ với các thiết chế chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị, mối quan hệ với
kinh tế thị trường, xã hội dân sự và mối quan hệ với công dân.
- Trong lĩnh vực kinh tế, sự quản lý, tác động, điều tiết của Nhà nước vẫn là hết sức cần
thiết nhằm kiểm soát sự vận hành của thị trường. Để thị trường vận hành hiệu quả cần phải
có Nhà nước đủ mạnh để đảm bảo sự tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, Nhà
nước không được phép tạo ra nguy cơ hành chính hoá nền kinh tế, cũng như thay thế vai trò
của thị trường và các doanh nghiệp. Nhà nước phải tự hạn chế, giảm thiểu các biện pháp
can thiệp trực tiếp vào thị trường, thông qua việc ban hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý
chặt chẽ hơn cho vận hành của thị trường, tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát,
kiểm soát.
- Nhà nước cần tăng cường sức mạnh của Nhà nước thông qua các biện pháp cải tổ mạnh
mẽ bộ máy nhà nước từ việc quan niệm lại kết cấu và tổ chức quyền lực, thực hiện công
quyền của các ngành quyền lực đến việc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư
pháp... làm cho Nhà nước thực sự thích ứng với cơ chế kinh tế - xã hội mới để giải quyết có
hiệu quả các nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ quá độ. Từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của
Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can
thiệp ấy, tăng cường các khả năng độc lập của các thiết chế chính trị xã hội khác theo
hướng giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà nước từ tài chính đến tổ chức.
- Nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho sự vận
động của dân chủ, kinh tế - xã hội và tự do công dân.
1.2- Đổi mới nhận thức về cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước :
Cái cốt lõi của các quan hệ quyền lực trong các điều kiện xây dựng Nhà nước là sự đảm
bảo cho việc tuân thủ vấn đề có tính nguyên tắc hiến định là toàn bộ quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực, một mặt trao
cho bộ máy nhà nước những quyền hạn nhất định để tổ chức thực hiện quyền lực một cách
tập trung, mặt khác chính nhân dân cũng trực tiếp tham gia vào việc thực hiện quyền lực.
Mỗi một công dân đều có quyền tham gia vào việc quyết định các vấn đề trọng đại của
quốc gia. Việc nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước là một tất yếu của đời sống
dân chủ trong xã hội công dân. Vấn đề đặt ra là luật pháp phải đưa ra được các hình thức
pháp lý cụ thể đảm bảo quyền chủ thể của nhân dân đối với quyền lực.
Việc tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương theo nguyên tắc phân quyền và kiểm
soát, đáp ứng được chính các đòi hỏi của các nguyên tắc dân chủ. Bởi lẽ một khi quyền lập
pháp trong tay Quốc hội, quyền hành pháp trong tay Chính phủ và quyền tư pháp trong tay
Toà án, tất yếu sẽ tập trung được mọi nỗ lực của các cơ quan này để giải quyết có hiệu quả
các nhiệm vụ, chức năng được nhân dân giao phó, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan
này trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hơn nữa với cơ cấu tổ chức quyền lực như
vậy, các cơ quan này thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau, loại bỏ có hiệu quả nguy
cơ chiếm độc quyền quyền lực hay là lạm quyền lực và nạn quan liêu hoá bộ máy nhà nước.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta không chỉ đòi hỏi xác định mô hình
tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương mà còn đòi hỏi phải xác định rõ mối quan hệ
giữa trung ương và địa phương.
Nhà nước ta về hình thức tổ chức lãnh thổ là Nhà nước đơn nhất, vì vậy mối quan
hệ giữa các địa phương với trung ương không mang tính chất phức tạp như kiểu tổ chức
nhà nước liên bang. Tuy nhiên, khi tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng có nhiều
vấn đề đặt ra cần được giải quyết.
Trước hết phải thấy rằng, sự thống nhất giữa trung ương và địa phương trong các điều
kiện của Nhà nước pháp quyền chính là ở chỗ, dù là cơ quan trung ương hay cơ quan địa
phương đều phải phục tùng và chịu sự điều chỉnh giám sát của pháp luật. Sự tối cao của các
đạo luật, sự thống nhất của hệ thống pháp luật với tính cách là cơ sở pháp lý căn bản cho
hoạt động của toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Trong các tài liệu bàn về quản lý nhà nước, vấn đề phân cấp, phân quyền quản lý, vấn đề
phi tập trung hoá quản lý luôn đặt ra và đã được nhiều nhà khoa học và quản lý thực tiễn
làm sáng tỏ. Vấn đề xác định các quan hệ quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương cũng đã được giải quyết thành công ở nhiều nước có chế độ dân chủ trên
thế giới. Ở đó, hạt nhân của chính quyền địa phương là các Hội đồng do dân chúng bầu lên
hoạt động theo nguyên tắc tự quản. Phạm vi, quyền hạn của các cơ quan tự quản địa phương
được luật pháp xác định rõ ràng kể cả lĩnh vực tài chính và ngân sách mà địa phương được
chủ động xây dựng và sử dụng (tỉ lệ trích từ các loại thuế được qui định bởi các pháp luật về
thuế, tài chính do chính quyền trung ương ban hành). Bên cạnh chính quyền tự quản địa
phương, ở nhiều nước còn thực hiện chế độ đại diện của Tổng thống hoặc đại diện của
Chính phủ. Nhiệm vụ, quyền hạn các vị đại diện chủ yếu là giám sát hoạt động của chính
quyền địa phương, đảm bảo cho luật pháp, các chủ trương, chính sách của chính quyền
trung ương được thực hiện đúng đắn và kịp thời. Đồng thời các vị đại diện còn kết hợp cùng
chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề nảy sinh ở địa phương cần có sự can thiệp,
giúp đỡ của trung ương. Thông qua vị đại diện, các cơ quan trung ương nắm vững được tình
hình các địa phương, kịp thời có các biện pháp, chủ trương để đáp ứng sự phát triển của các
địa phương.
Như vậy, bằng việc qui định chế độ tự quản địa phương và chế độ đại diện của trung
ương mà nhiều nước đã giải quyết có hiệu quả mối liên hệ giữa quản lý tập trung và nhu cầu
mở rộng dân chủ.
Thiết nghĩ mô hình tổ chức chính quyền địa phương như vậy cũng cần được nghiên cứu,
rút kinh nghiệm trong việc tìm kiếm một mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nước
ta, sao cho tinh thần của nguyên tắc