Từ đầu những năm 90, Thanh tra Ngân hàng đã ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát, thay thế việc giám sát thủ công như trước đây bằng việc giám sát bằng máy, từ đó đã làm cho công tác giám sát từ xa của Thanh tra Ngân hàng được nâng lên một bước cả về mặt chất lượng lẫn hiệu quả công việc. Hơn 10 năm áp dụng công nghệ tin học vào công tác giám sát, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi bước vào con đường hội nhập nền kinh tế thế giới, các tổ chức tín dụng nước ta đã ngày càng mở rộng quy mô phát triển cũng như nghiệp vụ của mình. Điều này đêm đến cơ hội phát triển cho các tổ chức tín dụng trong nước tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong công tác giám sát quản lí hoạt động các tổ chức tín dụng của nhà nước. Trong bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày về hoạt động của các tổ chức tín dụng, sự giám sát quản lí của nhà nước đối với các tổ chức tín dụng đó cũng như sự cần thiết của các quy định pháp luật trong công tác giám sát này. Từ đó nêu lên thực trạng hiện nay và một số biện pháp nhằm giải quyết các bất cập trong công tác quản lí và giám sát các tổ chức tín dụng của nhà nước.
54 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2858 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ chế giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng – sự cần thiết, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
--------------(((((-------------
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Cơ chế giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng – sự cần thiết, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện.”
Tp Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 03 năm 2011.
LỜI MỞ ĐẦU
Từ đầu những năm 90, Thanh tra Ngân hàng đã ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát, thay thế việc giám sát thủ công như trước đây bằng việc giám sát bằng máy, từ đó đã làm cho công tác giám sát từ xa của Thanh tra Ngân hàng được nâng lên một bước cả về mặt chất lượng lẫn hiệu quả công việc. Hơn 10 năm áp dụng công nghệ tin học vào công tác giám sát, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi bước vào con đường hội nhập nền kinh tế thế giới, các tổ chức tín dụng nước ta đã ngày càng mở rộng quy mô phát triển cũng như nghiệp vụ của mình. Điều này đêm đến cơ hội phát triển cho các tổ chức tín dụng trong nước tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong công tác giám sát quản lí hoạt động các tổ chức tín dụng của nhà nước. Trong bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày về hoạt động của các tổ chức tín dụng, sự giám sát quản lí của nhà nước đối với các tổ chức tín dụng đó cũng như sự cần thiết của các quy định pháp luật trong công tác giám sát này. Từ đó nêu lên thực trạng hiện nay và một số biện pháp nhằm giải quyết các bất cập trong công tác quản lí và giám sát các tổ chức tín dụng của nhà nước.
Với lượng kiến thức hạn hẹp, bài tiểu luận của chúng em không khỏi tránh được những sai sót, khiếm khuyết. Chúng em mong sẽ được thầy sẽ thông cảm và hướng dẫn thêm để khắc phục những thiếu sót đó. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
Những khái niệm chung về tín dụng và tổ chức tín dụng:
Tín dụng:
“Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là một sản phẩm của kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.” Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
“Tín dụng” xuất phát từ chữ Latin là “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh là “Credit”. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Có thể định nghĩa tín dụng như sau:
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng và sau đó hoàn trả với một lượng giá trị lớn hơn.
Có thể hiểu tín dụng là việc một bên (cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (đi vay), trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên vay trong một thời hạn thỏa thuận kèm theo lãi suất. Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên- Một bên cho vay và một bên đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả…..
Cơ chế tín dụng được thể hiện ba mặt cơ bản sau đây:
+ Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác.
+ Sự chuyển giao mang tín chất tạm thời
+ Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Tổ chức tín dụng:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hoạt động của tổ chức tín dụng:
+Huy động vốn: gồm nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của ngân hàng Nhà nước.
+Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu, và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
+Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Mở tài khoản, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, tham gia hệ thống thanh toán.
+Các hoạt động khác: Góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, kinh doanh bất động sản, kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn…
Hình thức tổ chức của các tổ chức tín dụng:
Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.
Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức duới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Ngân hành hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã.
Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đắc điểm các loại hình tổ chức tín dụng:
Hệ thống tín dụng Việt Nam gồm có:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.(NHNN)
Các tổ chức tín dụng nhà nước.
Ngân hàng thương mại cổ phần.
Chi nhành ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh.
Công ty tài chính.
Công ty cho thuê tài chính.
Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Đây là cơ quan cấp bộ, trực thuộc chính phủ, là ngân hàng trung ương (NHTW) ở Việt Nam. Là một trong những cơ quan có vị trí cực kỳ quan trọng. Là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống các ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch, làm nghiệp cụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng.
Ngân hàng trung ương có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng , quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vồn của Nhà nước tới doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện có hơn 10 vụ như: Vụ Chính sách Tiền tệ, Vụ Chiến lược phát triển Ngân hàng, Vụ hợp tác Quốc tế, Vụ Quản lý Ngoại hối, vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác… Hiện nay, có ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải cải cách mới có thể thực hiện tốt được các chức năng và vai trò là Ngân hàng Trung ương của mình.
Các tổ chức tín dụng nhà nước:
Tổ chức tín dụng nhà nước là tổ chức tín dụng được nhà nước thành lập cấp vốn điều lệ và bổ nhiệm người quản trị điều hành, là quan hệ cho vay phát sinh giữa nhà nước và dân cư.
Về tính sở hữu là một doanh nghiệp nhà nước.
Về phương diện pháp lý là một doanh nghiệp công lập, được nhà nước cấp vốn điều lệ.
Kinh doanh tiền tệ với mọi loại hình kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần:
NHTM cổ phần bao gồm:
- NHTM cổ phần đô thị.
- NHTM cổ phần nông thôn.
Là tổ chức tín dụng cổ phần, được thành lập trên cơ sở vốn góp của các cổ đông để thực hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các quy chế, quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam khi hoạt động.
Được khai thác mọi nguồn vốn trong và ngoài nước từ mọi thành phần kinh tế.
Được nhận vốn tài trợ, ủy thác đầu tư ngân sách từ các tổ chức quốc tế, quốc gia cho cá chương trình đầu tư và phát triển kinh tế xã hội.
Được quyền cho vay đối với mọi đối tượng khi thỏa mãn các điều kiện vay vốn theo luật định.
Được hùn vốn bằng nguồn vốn tự có theo tỉ lệ quy định của nhà nước.
Được làm dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng.
Được kinh doanh tiền tệ và dịch vụ đối ngoại khi được ngân hàng nhà nước cho phép.
Được tiến hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác nếu có các điều kiện về thị trường nguồn vốn, về hiệu quả kinh doanh, trình đọ kỹ thuật nghiệp vụ.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng xuyên xứ) hoạt động tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Chỉ có đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy phép kinh doanh. Ngoài chi nhánh chính không được mở chi nhành phụ (bên chí nhánh nước ngoài) tất cả là một pháp nhân duy nhất. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh:
Ngân hàng liên doanh là tổ chức tín dụng liên doanh, là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên doanh có trụ sở tại Việt Nam và chịu sự điều hành của pháp luật Việt Nam.
Ngân hàng liên doanh được hoạt động bằng cả VNĐ và ngoại tệ theo quy định trong giấy phép.
Ngân hàng liên doanh chỉ đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy phép điều hành kinh doanh.
Công ty tài chính:
Công ty tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Là tổ chức tín dụng được thành lập nhầm mục đích cho vay để phát triển sản xuất hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của các đối tượng khác trong xã hội.
Công ty tài chính có thẩm quyền cơ bản giống như ngân hàng thương mại.
- Chỉ được huy động vốn dưới hình thức phát hành tín phiếu trong giới hạn cho phép.
- Không được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân.
- Cho vay ngắn hạn và trung hạn là chủ yếu, phục vụ việc mua bán hàng hóa dịch vụ của các tổ chức và cá trên địa bàn.
Công ty cho thuê tài chính
Công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Là tổ chức cho vay tài sản thông qua việc đầu tư tài chín vào tài sản. Đó là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiệt bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê.
Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài:
Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoại là tổ chức tín dụng nước ngoài làm chức năng văn phòng liên lạc, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xây dựng các dự án đầu tư của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các hợp đồng thỏa thuận đã ký giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam, các dự án do nước ngoài tài trợ tài Việt Nam và các hoạt đông khác phù hợp với pháp luật Việt Nam khi được ngân hàng nhà nước cho phép.
Bức tranh hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam:
Sơ lược về sự hình thành và phát triển của khu vực Ngân hàng-tín dụng (NH-TD) của Việt Nam:
“Hệ thống NH-TD trước thời kỳ đổi mới 1986:
Thống trị hệ thống NH-TD Đông Dương suốt thời kỳ Pháp thuộc là Ngân hàng Đông Dương do Pháp thành lập vào đầu nữa sau thế kỷ 19. Giai đoạn 1945-1954, Việt Nam bị chia cắt, đan xen bởi những cùng tự do thuộc Chính quyền Cách mạng kiểm soát và những vùng bị Pháp chiếm đóng. Theo đó, hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng ở trong tình trạng bị chia cắt.
Tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (tiền thân của NHNN Việt Nam ngày nay) được thành lập. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của hệ thống NH-TD của Việt Nam.
Hòa bình được khôi phục năm 1954 đã dẫn tới sự cấu lại hệ thống NH-TD Việt Nam. Hệ thống NH-TD ở miền Bắc đã trở thành cỗ máy phục vụ chủ yếu cho khu vực kinh tế nhà nước-cấp tín dụng cho các xí nghiệp Quốc gia, và một phần cho khu vực kinh tế tập thể: các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ nông nghiệp
+ Cải cách khu vực NH-TD sau 1986 và tình hình phát triển cho đến ngày nay:
Cuộc cải cách hệ thống NH-TD được thực hiện trong suốt gần ba thập kỷ, được đặc trung bằng việc hình thành một hệ thống ngân hàng 2 cấp, gồm NHNN-đóng vai trò NHTW, và NHTM NN chuyên doanh độc lập. Với việc ra đời của 2 pháp lệnh về ngân hàng (sau này là 2 luật về NH), một hệ thống pháp luật về ngành NH đã được xây dựng nhằm tạo lập những khuôn khổ pháp lý ban đầu cho sự vận hành của hệ thống NH mới,.
Sau gần 3 thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống NH-TD đã trải qua 2 giai đoạn phát triển đáng lưu ý:
Giai đoạn đầu 1990-1996 là sự tăng lên nhanh chóng về số lượng và loại hình các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng sự tăng vọt của cầu về dịch vụ tín dụng trong giai đoạn đầu “bung ra” của thời kỳ chuyển đổi.
Giai đoạn tiếp theo từ 1997 tới nay là củng cố, chấn chỉnh hệ thống các tổ chức tín dụng.
Thực tế cho thấy một sự phát triển vượt bậc của hệ thống tổ chức tín dụng, bắt đầu từ diện rộng – số lượng và loại hình, chuyển sang theo chiều sâu – năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, quản lý rủi ro, số và chất lượng sản phẩm/dịch vụ tín dụng, hiệu quả kinh doanh, với mức độ tập trung hóa ngày càng cao nhờ ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu của công nghệ tin học và khoa học quản lý vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trong sự phát triển chung của khu vực NH-TD tại Việt Nam, cho tới khoảng cuối năm 1994, các thị trường tiền gửi, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường trái phiếu… lần lượt ra đời. Trong những năm gần đây, các thị trường này, ở những mức độ khác nhau, đã có những bước phát triển rất đáng ghi nhận. Ngân hàng nhà nước, với tư cách là người tổ chức, quản lý và là thành viên tham gia thị trường đã tạo lập nên những công cụ cần thiệt và phù hợp nhằm thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ của Quốc gia.” Tính đến này, đã có 5 ngân hàng chính sách-phát triển (Nhà nước), 39 NHTM cổ phần, 12 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng Việt ở nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam. Chưa kể một số lượng đáng kể các tổ chức tín dụng phi ngân hàng cũng tham gia vào việc cung cấp dịch vụ, sản phẩm của khu vực NH-TD. Sự lớn mạnh của quy mô vốn, tài sản và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn dần đáp ứng được tốc độ tăng trưởng của tài sản đã góp phần cải thiện tỷ lệ an toàn vốn qua từng năm. Hiện nay, tỷ lệ này của Việt Nam trên thực tế đã đáp ứng đủ yêu cầu về an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế Basel II (8%).Bên cạnh đó cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lợi nhuận khu vực ngân hàng Việt Nam liên tục tăng. Tính đến cuối năm 2009, lợi nhuận toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt 29.241 tỷ VND, tăng khoảng 3,7 lần so với năm 2005 (7.984 tỷ VND). Chi phí hoạt động của khu vực ngân hàng cũng tăng lên tương ứng (hơn 90% năm 2009).
“Mặc dù đã có những bước phát triển nhanh chóng ,mạnh mẽ và đáng ghi nhận, góp phần quan trọng với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, xét trong mối tương quan so với các nước trong khu vực và thế giới thì hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất yếu so với các nước cả về mức độ cạnh tranh lẫn tính lành mạnh và an toàn hệ thống. Mặc dù chỉ số tín dụng/GDP của Việt Nam phát triển khá nhanh, nhưng Việt Nam vẫn là một nước có mức độ thâm nhập ngân hàng thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á, dưới 30% dân số tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Ước tính có khoảng 25 triệu tài khoản tiết kiệm trên 85 triệu dân. Vẫn còn một bộ phận lớn dân chúng chưa gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, nên có một số lượng nguồn vốn tiết kiệm lớn chưa được sử dụng tại Việt Nam. Trong khi đó, để duy trì mức tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam yêu cầu một tỷ lệ đầu tư tương đối cao, trung bình khoảng 35% GDP trong suốt giai đoạn 2000 - 2006 và hơn 40% GDP giai đoạn sau đó. Song không giống như các nước Đông Nam Á khác như Indonesia, Maylaysia và Philippines, tỷ lệ huy động tiền gửi của Việt Nam thấp hơn đáng kể và Việt Nam đang phải đối mặt với sự thiếu hụt ngày càng tăng về nguồn vốn đầu tư tương đương hơn 10% GDP.
Quy mô vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam còn nhỏ so với các ngân hàng trung bình trong khu vực. Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất toàn hệ thống như Agribank, Vietcombank hay BIDV cũng chỉ có khoảng trên 800 triệu USD, thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực (như Ngân hàng Băng Cốc Thái Lan: hơn 3 tỷ USD, Ngân hàng DBS của Singapore: hơn 9 tỷ USD, Ngân hàng Mandiri của Indonesia hơn 2 tỷ USD, Ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ USD và Ngân hàng Philippines hơn 900 triệu USD). Những con số này phù hợp với nhận định về hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay là số lượng ngân hàng quá lớn, trong khi quy mô của từng ngân hàng là nhỏ, nếu so sánh về quy mô trung bình của nhóm các ngân hàng lớn ở các quốc gia phát triển nhất trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Singapore và Indonesia.
Về hiệu quả hoạt động, tỷ lệ bình quân lợi nhuận ròng sau thuế so với tổng tài sản (ROA) mặc dù tăng đều qua các năm (lên tới 1,2% cuối 2009), nhưng vẫn còn thấp so với một số nước châu Á mới nổi (Indonesia trung bình khoảng 2%; Malaysia trung bình khoảng 1,5%; Philippines khoảng 1,5% và Singapore khoảng 1,4%)”.
Tóm lại, hệ thống NH-TC mới nổi của VN mang một số nét đặc trưng sau:
Tốc độ phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính của Việt Nam là tương đối nhanh, qua đó cải thiện đáng kể độ sâu tài chính. Tuy nhiên, sự tăng trưởng về số lượng không tương đồng với chất lượng tăng trưởng.
Khu vực NH-TD Việt Nam vẫn tiếp tục chịu chi phối rất lớn bởi hoạt động NH. Do đó, tính ổn định và chất lượng hoạt động của hệ thống NH sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự vững mạnh của khu vực này và từ đó, tác động tới sự ổn định của kinh tế vĩ mô.
Các NHTM Việt Nam nói chung còn nhỏ bé so với NH các nước trong khu vực và còn yếu kém về nhiều mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lực TC, trình độ công nghệ, năng lực quản lý rủi ro, quản trị NH. Uy tín của các NHTM, đặc biệt là các NHTMCP trong công chúng còn hạn chế, do đó nguy cơ đổ vỡ NH do các thông tin lệch lạc còn lớn, dẫn tới nguy cơ đổ vỡ lây lan, hay khả năng rủi ro hệ thống là khá cao.
Sự cần thiết, quy đinh pháp luật về quản lý hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng:
Sự cần thiết các quy định về quản lý hoạt động tín dụng:
Rủi ro hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng. Ngân hàng muốn có lợi nhuận thì NH phải chấp nhận rủi ro, phải chấp nhận có nghĩa là phải sống chung cùng với những rủi ro phát sinh trong từng nghiệp vụ của hoạt động tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, dựa trên thời hạn cho vay thì hoạt động tín dụng có sự phân chia ra ba lĩnh vực hoạt động. Cụ thể đó là: Hoạt động tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động không thể thiếu vì nó mang lại nhiều lợi ích. Nhưng hoạt động này mang một mức độ rủi ro cao do thời hạn hợp đồng mang một thời gian dài có thể có nhiều biến động. Hoạt động tín dụng hiện nay đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60-70% trong danh mục tài sản có. Đặc biệt, nguồn tín dụng này đang đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp.
Mặc khác, trong xu thế kinh doanh hiện đại, các ngân hàng sẽ giảm dần tỷ trong tín dụng, tăng tỷ trọng dịch vụ. Như vậy, sự rủi ro trong hoạt động ngân hàng hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ nếu những nghiệp vụ đó không được quản lý theo một quy trình chặt chẽ. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính và nền công nghiệp dịch vụ tài chính- ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi ở Nhà nước phải có những phương pháp, cách thức quản lý chặt chẽ nhằm giảm rủi ro trong từng hoạt động dịch vụ khu vực NH-TD từ đó hướng đến mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Cơ chế quản lý của Nhà nước về hoạt động của các tổ chức tín dụng:
Nhận biết được tình hình trên Nhà nước ta đã chủ động xây dựng các bộ luật cũng như các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý, giám sát để bảo đảm hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống Thanh tra ngân hàng Nhà nước
5 năm sau ngày thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam(1951), Ban Thanh tra Ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Quốc gia đã được thành lập bởi nghị định số 900-TTg của Chính phủ. Ban Thanh tra Ngân hàng quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ:
+ Thanh tra mọi mặt công tác ở các chi nhánh Ngân hàng khu, thành phố, tỉnh, huyện và cơ quan tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_giam_sat_hoat_dong_to_chuc_tin_dung.docx
- MỤC LỤC.docx