Tiểu luận Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán

Trong xu hướng hội nhập, súc ép về nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế là rất lớn và cổ phần hóa các DNN là một trong các giải pháp cơ bản và cấp thiết nhất.Hoạt động hiệu quả của lĩnh vực tài chính –ngân hàng là điều kiện tiên quyết để tăng trưởng kinh tế bền vững vì tính năng động và rất dễ tổn thương của lĩnh vực này. Các NHTM là các trung gian tài chính thực hiện việc huy động, cung ứng tín dụng và các dịch vụ trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nên đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Theo hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, cho đến trước năm 2010, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ chỉ được hoạt động dưới hình thức liên doanh với đối tácViệt Nam theo tỷ lệ góp vốn 30-49% vốn điều lệ. Từ năm 2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam và hoạt động gần như không hạn chế so với các ngân hàng Việt Nam. Đây sẽ không chỉ là thách thức lớn đối với riêng các NHTM NN mà là cả đối với hệ thống các NHTM. Thực tế khà năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam vẫn còn yếu nếu so sánh với các NHTM khu vực và thế giới. Trong quá trình hội nhập các ngân hàng Việt Nam chưa chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là giải pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp còn nghèo nàn và thiếu an toàn. Điều này đòi hỏi phải cải cách trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tài chính – tiền tệ, nhằm đáp ứng những thách thức của nến kinh tế khi thực hiện mở của thị trường ra bên ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là năng lực tài chính của các ngân hàng còn rất yếu.Tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có so với tổng nguồn vốn) thấp xa so với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc tế (8%).Để tăng vốn tự có cho các NHTM NN ,cổ phần hoá là một giải pháp cần thiết. Việc cổ phần hoá cho phép ngân hàng huy động một khối lượng vốn rất lớn trong và ngoài nước để tăng vốn điều lệ, ngoài ra đó cũng là biện pháp nhằm đa dạng hoá các loại hình sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, tạo nên hệ thống các NHTM cổ phần hoạt động năng động hơn, bình đẳng hơ

pdf25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ------------ ĐỀ TÀI 8: CỔ PHẦN HÓA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN GVHD : TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN LỚP : NH ĐÊM 2 KHÓA 16- Nhóm 5 MÔN : THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÓM SV THỰC HIỆN : ĐÀO THỊ MỸ LINH PHAN DUY THƯỢNG ĐOÀN HOÀNG VIỆT VŨ MẠNH TÙNG ĐINH QUỐC TUẦN 12/2007 1 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu hướng hội nhập, súc ép về nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế là rất lớn và cổ phần hóa các DNN là một trong các giải pháp cơ bản và cấp thiết nhất.Hoạt động hiệu quả của lĩnh vực tài chính –ngân hàng là điều kiện tiên quyết để tăng trưởng kinh tế bền vững vì tính năng động và rất dễ tổn thương của lĩnh vực này. Các NHTM là các trung gian tài chính thực hiện việc huy động, cung ứng tín dụng và các dịch vụ trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nên đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Theo hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, cho đến trước năm 2010, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ chỉ được hoạt động dưới hình thức liên doanh với đối tácViệt Nam theo tỷ lệ góp vốn 30-49% vốn điều lệ. Từ năm 2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam và hoạt động gần như không hạn chế so với các ngân hàng Việt Nam. Đây sẽ không chỉ là thách thức lớn đối với riêng các NHTM NN mà là cả đối với hệ thống các NHTM. Thực tế khà năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam vẫn còn yếu nếu so sánh với các NHTM khu vực và thế giới. Trong quá trình hội nhập các ngân hàng Việt Nam chưa chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là giải pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp còn nghèo nàn và thiếu an toàn. Điều này đòi hỏi phải cải cách trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tài chính – tiền tệ, nhằm đáp ứng những thách thức của nến kinh tế khi thực hiện mở của thị trường ra bên ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là năng lực tài chính của các ngân hàng còn rất yếu.Tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có so với tổng nguồn vốn) thấp xa so với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc tế (8%).Để tăng vốn tự có cho các NHTM NN ,cổ phần hoá là một giải pháp cần thiết. Việc cổ phần hoá cho phép ngân hàng huy động một khối lượng vốn rất lớn trong và ngoài nước để tăng vốn điều lệ, ngoài ra đó cũng là biện pháp nhằm đa dạng hoá các loại hình sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, tạo nên hệ thống các NHTM cổ phần hoạt động năng động hơn, bình đẳng hơ 2 CHƯƠNG I: NHỰNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những vấn đề đang được đẩy mạnh ở nước ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới. Sau đây là những vấn đề chung nhất về cổ phần hóa DNNN đã và đang diễn ra ở nước ta: I. Khái niệm Thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển hình thức sở hữu nhà nước thành hình thức đa sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho nhiều chủ thể khác. II. Sự cần thiết phải cổ phần hóa  Hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm: trong những năm 80, đối với các nước có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển, thì vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã được khẳng định và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhìn về tổng thể thì có những doanh nghiệp nhà nước hoạt động tốt, hiệu quả kinh tế cao, nhưng có không ít các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải dùng chính sách kinh tế vĩ mô để bảo hộ, như: Miễn giảm thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư, bù lỗ... Theo Thông báo Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhận định: Doanh nghiệp nhà nước còn những mặt hạn chế, yếu kém, hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự trợ giúp của Nhà nước; công nợ còn nhiều, chậm đổi mới công nghệ, lao động còn dôi dư lớn, chưa thực sự tự chủ trong kinh doanh, trình độ quản lý còn yếu kém, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất hợp lý. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đều có năng suất lao động thấp, chỉ đạt khoảng 38% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vòng quay vốn trung bình trong giai đoạn 1985-1991 chỉ đạt 60% so với doanh nghiệp ngoài quốc 3 doanh. Một thực tế đáng lo ngại khác là sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước rất yếu. Trong khối ASEAN, Việt Nam thuộc nhóm nước có sức cạnh tranh kém phát triển. Thủ tướng lấy ví dụ: Chi phí vận chuyển công ten nơ từ khu công nghiệp Bình Dương đến cảng Vũng Tàu còn cao hơn cả từ Vũng Tàu đi Singapore.  Nhà nước giảm dần sự bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước: trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, hàng loạt các ngành công nghiệp đã trở nên càng ngày càng khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác là hợp tác quốc tế để giải quyết những khó khăn đó. Đồng thời, việc phát triển các ngành công nghiệp, phát triển sản xuất và những vấn đề liên quan đến sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước đều do Nhà nước quyết định hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong môi trường mới đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời trong nền kinh tế thị trường.  Nhà nước giảm dần chức năng làm kinh tế: nhà nước không có tham vọng hành chính hoá nền kinh tế, cũng như không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, sự quản lý, tác động của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu được cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Cho dù luật chơi của thị trường có hiệu quả đến đâu thì cũng không thể thả nổi hoàn toàn nền kinh tế cho quy luật tự điều chỉnh của thị trường. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng thị trường tự nó sẽ tự điều chỉnh, tự nó có đủ cơ chế để vận hành hiệu quả. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách. Nhà nước cũng có thể can thiệp, điều tiết thị trường bằng việc thành lập các cơ quan được giao đặc trách việc điều tiết, quản lý kinh tế, với qui chế độc lập. Việc Nhà nước hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và làm thay các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến hai thay đổi đáng kể: Thứ nhất, tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn cho sự vận hành của thị trường; thứ hai, tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước thị trường. Hiện nay, các khoản nợ, việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau rất lớn, Nhà nước lại phải đứng ra lo trả nợ để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường mặc dù không thu về được vốn. Điều đó đã khiến các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà 4 nước. Mức độ tổn thất do khu vực doanh nghiệp nhà nước gây ra cho ngân sách nhà nước đã làm ảnh hưởng, thiếu lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực kinh tế này đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội như: Tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, ỷ lại vào nhà nước, thất nghiệp tăng... Để giảm bớt những gánh nặng này, Nhà nước đã từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình. Trong bối cảnh này, vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước cũng cần thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp nhà nước muốn giải quyết vấn đề này không thể tự mình quyết định mà phải qua nhiều thủ tục hành chính của các cấp có thẩm quyền để chớp lấy thời cơ hội nhập và hợp tác quốc tế. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là một giải pháp hữu hiệu. III. Mục tiêu cổ phần hóa DNNN Theo Nghị Định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 thì mục tiêu của cổ phần hóa DNNN nhằm:  Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.  Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.  Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. IV. Đối tượng cổ phần hóa  Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.  Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).  Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.  Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập. 5  Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.  Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. V. Điều kiện cổ phần hóa  Các doanh nghiệp quy định tại Điều 2 Nghị định này thực hiện cổ phần hóa khi đảm bảo đủ 02 điều kiện:  Không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Danh mục doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ;  Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.  Đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc, ngoài điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải đảm bảo các điều kiện sau:  Có đủ điều kiện hạch toán độc lập;  Việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán phụ thuộc không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp;  Đã xác định trong Phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.  Trường hợp sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Chương II và Chương III Nghị định này mà giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chuyển sang thực hiện bán hoặc giải thể, phá sản. VI. Hình thức cổ phần hóa  Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. 6 VII. Thực trạng cổ phần hóa DNNN 15 năm qua 1. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa: toàn bộ tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH) được chia làm 3 thời kỳ: Thời kỳ thí điểm (5 năm, từ năm 1992- 1996), chỉ cổ phần hoá được có 5 doanh nghiệp (DN); Thời kỳ mở rộng CPH tính từ năm 1997-2000, tiến trình diễn ra vẫn chậm, chủ yếu là các DN nhỏ. Cả 5 năm (từ năm 1996-2000) cũng chỉ CPH được 573 DN; Thời kỳ đẩy mạnh CPH từ 2001 đến nay, chỉ tính đến hết năm 2005 đã CPH được 2.347 DN, tăng lên nhiều so với các thời kỳ trước với quy mô lớn hơn. Tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 được tổ chức ngày 7/10/2007, báo cáo về kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua, ông Phạm Viết Muôn, Phó Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cho biết, tính đến hết tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hóa 3.060 DNNN. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 DNNN, bằng gần 68% tổng số doanh nghiệp. 2. Hiệu quả và lợi ích của các Doanh nghiệp sau cổ phần hóa:  Đóng góp cho ngân sách nhà nước: sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước.  Hiệu quả hoạt động: nhìn chung, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6% cổ tức bình quân đạt 17,11%. Bên cạnh đó, những chỉ số như năng suất lao động tăng 18,3%, đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%, lương bình quân doanh nghiệp tăng 11,4%... khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi sang mô hình cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước. Tiêu biểu như Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), doanh nghiệp đã niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM; hay một 7 đại diện mới cổ phần hóa và chuẩn bị lên sàn như Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất dầu khí (Đạm Phú Mỹ). Theo số liệu từ HSSC, năm 2003, Vinamilk được đánh giá ở mức 100 triệu USD; một năm sau thực hiện cổ phần hóa, theo đánh giá của thị trường là 150 triệu USD và đến năm nay, phần vốn và lãi của Nhà nước đã tăng vọt lên 970 triệu USD (gần 16.000 tỷ đồng).Với Đạm Phú Mỹ, vào thời điểm cổ phần hóa, giá trị doanh nghiệp này được xác định ở mức 3.800 tỷ đồng, tăng 800 tỷ so với vốn đầu tư. Khi tiến hành đấu giá vào cuối tháng 4/2007, Nhà nước thu về gần 7.000 tỷ đồng, gấp 2,3 lần số vốn đầu tư ban đầu và vẫn giữ cổ phần chi phối ở công ty. Nếu bán toàn bộ vốn Nhà nước, Nhà nước có thể thu về 20.520 tỷ đồng, cao hơn giá trị được xác định ban đầu 16.720 tỷ đồng.  Tinh giản, xắp xếp các doanh nghiệp: cùng với việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn.  Thay đổi cung cách quản lý: phân tích về nguyên nhân tăng trưởng cho thấy, việc thay đổi về mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng kết quả thực tế, 96% doanh nghiệp đã khẳng định cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh; trong khi đó 88% doanh nghiệp cho biết kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương được tính toán trên cơ sở hiệu quả sản xuất. Đặc biệt, sau cổ phần hóa, sự can thiệp trực tiếp của các tổ chức, cá nhân ngoài bộ máy quản lý điều hành doanh nghiệp như chính quyền, cơ quan chủ quản, các tổ chức khác đã giảm sút rõ rệt. Sự chuyển biến tích cực này đã giúp cho doanh nghiệp chủ động trong các quyết định điều hành và tập trung vào mục tiêu cơ bản là sản xuất kinh doanh.  Nâng cao trách nhiệm của người lao động: quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ quản lý và người lao động gắn chặt hơn với doanh nghiệp đã tạo điều kiện để tận dụng tốt hơn cơ sở vật chất và nguồn lực của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện khi có tới 8 85% doanh nghiệp cho rằng đã sử dụng tốt hơn năng lực sản xuất so với trước khi cổ phần hóa. 3. Những khó khăn, vướng mắc tồn tại  Đối tượng cổ phần hóa: nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra. Đối tượng cổ phần hóa ở nước ta khác hẳn với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong nền kinh tế thị trường phát triển cao. Ở nước ta, một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu cả về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, chưa hẳn là một tổ chức hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường.  Cơ cấu vốn điều lệ: Tỷ lệ cổ phần Số lượng Nhà nước giữ doanh nghiệp 51% 33% 49% 37% 0% 30% Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%). Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh 9 nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước.  Cơ cấu cổ đông: cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).  Tình trạng bình mới rượu cũ: như đã phân tích ở trên, mặc dù có sự tham gia của các thành phần kinh tế bao gồm các nhà đầu tư chiến lược, tuy nhiên, ở các Doanh nghiệp mà nhà nước nắm quyền chi phối bộ máy lãnh đạo vẫn của Nhà nước dẫn đến cung cách làm ăn, quản lý như cũ.  Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.  Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn: tính đến ngày 31-12- 2005, dư nợ cho vay đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.  Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng
Luận văn liên quan