Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn từ những người có vốn dư thừa tới người thiếu vốn qua các kênh trực tiếp (việc trao đổi vốn không qua trung gian) hoặc gián tiếp (việc trao đổi vốn qua các tổ chức tài chính trung gian). Sự phát triển không ngừng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng cuả nền kinh tế càng làm cho kênh chuyển vốn qua các tổ chức tài chính trung gian ngày càng đóng vai trò quan trọng đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Ở nước ta hệ thống NHTMNN đã và đang chi phối các hoạt động tài chính tiền tệ và có vị trí ảnh hưởng rất lớn tới thị trường tài chính cũng như sức khoẻ của nền kinh tế Việt Nam. Hơn hết trước yêu cầu cấp thiết hội nhập và toàn cầu hoá đòi hỏi các NH VN phải có nhứng cải cách và thay đổi phù hợp. Quá trình cổ phần hoá (CPH) NHTMNN là một trong những bước đi quan trọng góp phần phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy nền kinh tế. Các NHTMNN VN đang trong quá trình thực hiện các đề án CPH do đó nhất thiết phải đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình CPH NHTMNN đúng hướng, đúng tiến độ và đạt hiệu quả.
43 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn từ những người có vốn dư thừa tới người thiếu vốn qua các kênh trực tiếp (việc trao đổi vốn không qua trung gian) hoặc gián tiếp (việc trao đổi vốn qua các tổ chức tài chính trung gian). Sự phát triển không ngừng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng cuả nền kinh tế càng làm cho kênh chuyển vốn qua các tổ chức tài chính trung gian ngày càng đóng vai trò quan trọng đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Ở nước ta hệ thống NHTMNN đã và đang chi phối các hoạt động tài chính tiền tệ và có vị trí ảnh hưởng rất lớn tới thị trường tài chính cũng như sức khoẻ của nền kinh tế Việt Nam. Hơn hết trước yêu cầu cấp thiết hội nhập và toàn cầu hoá đòi hỏi các NH VN phải có nhứng cải cách và thay đổi phù hợp. Quá trình cổ phần hoá (CPH) NHTMNN là một trong những bước đi quan trọng góp phần phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy nền kinh tế. Các NHTMNN VN đang trong quá trình thực hiện các đề án CPH do đó nhất thiết phải đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình CPH NHTMNN đúng hướng, đúng tiến độ và đạt hiệu quả.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 CÁC KHÁI NIỆM
Để hiểu rõ về CPH NHTMNN trước hết ta phải hiểu thế nào là CPH.
Về bản chất CPH là quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để phát triển hướng kinh doanh.
CPH về cơ bản là quá trình mà ở đó không xoá bỏ hoặc tạo ra tài sản nhưng được phân bổ lại theo cách thức mới và tạo tiềm năng phát triển mạnh mẽ hơn.
Xét về hình thức CPH DNNN thì CPH là việc nhà nước bán một hoặc toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý cán bộ công nhân viên chức bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Xét về thực chất CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
1.2.1 Cổ phần hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam
CPH doanh nghiệp là con đẻ của nền kinh tế thị trường và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. CPH DNNN là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế nhà nước, nhất là trong điều kiện VN thiếu vốn, nợ nhiều, quản lý còn yếu kém, công nghệ lạc hậu…
Chủ trương CPH DNNN được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới theo Quyết định số 143/HĐBT ngày 15/10/1990 và thực hiện thí điểm từ năm 1992 theo Quyết định số 202/HĐBT ngày 8/6/1992 của Hội đồng Bộ trưởng.
Qua cổ phần, DN được cơ cấu theo hướng tập trung quy mô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; quy mô vốn của DNNN được tăng lên đáng kể năm 2001, vốn bình quân của DNNN khoảng 24 tỷ đồng, nay tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tài chính DN được lành mạnh hoá thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ…
Qua thực tế hoạt động hơn 1 năm của 850 DN hoàn thành cổ phần cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện tăng 139,76%, nộp ngân sách tăng 24,9%, thu nhập người lao động tăng 12%, số lao động không những không giảm mà bình quân tăng 6,6%, đặc biệt cổ tức bình quân đạt 17,11%, trong đó 71,4% số DN có cổ tức cao hơn lãi tiền gửi ngân hàng.
Năm 2004, số DNNN còn lại là 4300, trong đó phải tiến hành đa dạng hoá hoặc CPH khoảng 2400 doanh nghiệp. Tính đến nay qua 15 năm thực hiện CPH DNNN, tổng giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại các DNNN đã CPH mới đạt xấp xỉ 15% tổng vốn nhà nước có được đến cuối năm 2005. Số DN tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước cho đến năm 2005 còn lại khoảng 1.200 DN. Toàn bộ các DN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn (khoảng 1.460 DN) sẽ được sắp xếp theo hình thức CPH; trường hợp không cổ phần hoá thì chuyển sang lựa chọn các hình thức như giao, bán, giải thể, phá sản DN.
Xuất phát từ thực trạng này, Chính phủ đã chỉ đạo cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình sắp xếp, CPH DNNN. Thể chế hoá các Nghị quyết Trung ương về đẩy nhanh, đẩy mạnh CPH DNNN, một loạt biện pháp đã được đề ra nhằm thực hiện bằng được mục tiêu hoàn thành sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006 – 2010, một giải pháp quyết liệt nhằm đẩy mạnh quá trình này là mở rộng (đối tượng) CPH, đây cũng chính là cơ sở của quá trình tăng tốc CPH DNNN.
1.2.2. Cổ phần hóa Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước
CPH NHTMNN về thực chất là quá trình chuyển đổi các NHTMNN có một chủ sở hữu là Nhà nước, thành các NHTM có nhiều chủ sở hưu với nhiều cổ đông khác nhau. tính đến nửa đầu năm 2004,tổng giá trị tài sảncủa các NHTMNN chiếm tới hơn 73.80% tổng giá trị tài sản thể hiện trên cân đối kế toán của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và luôn là ngành kinh tế then chốt của bất kì một quốc gia nào. với xu thế hội nhập tất yếu như hiện nay, các ngân hàng phải không ngừng nỗ lực để giành thế chủ động trên thị trường nội địa, sẵn sàng tiến bước ra thị trường quốc tế. NHTMNN có thị phần hoạt động chiếm trên 70% trên toàn quốc vì vậy các NHTMNN phải tiến những bước vững chắc trước tiên để đưa cả hệ thống ngân hàng tiến bước trong điều kiện mới. Việc cổ phần hoá NHTMNN lá cần thiết
Hiện tại các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm: NH nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NH công thương Việt Nam (ICB), NH ngoại thương Việt Nam( VCB), NH đầu tư và phát triển (BIDV), NH phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long( MHB)
Những năm trước đây các NHTMNN đóng vai trò chủ đạo trên các phương diện ngân hàng- tài chính: như thị phần huy động và cho vay, tài sản có. Từ năm 2000, các tỉ lệ này giảm đi không ít, tuy nhiên đến nay dư nợ cho vay của các NHTMNN vẫn chiếm trên 70% trên tổng dư nợ cho nền kinh tế. Về huy động vốn của các NHTMNN cũng chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Các NHTMNN hiện nay có rất nhiều chi nhánh từ tỉnh, thành phố, huyện, liên xã. Đó là lực lượng tài chính chủ đạo trong cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Nhìn chung NHTMNN ở Việt Nam đang đống vai trò chủ chốt trên thị trường ngân hàng song tình hình tài chính của các NHTMNN còn hạn chế, mức độ rủi ro cao, năng lực cạnh tranh thấp. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay: gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kì đã và đang tạo ra nhiều sức ép cho hệ thống NHTMNN. Đó là những thách thức: phải gia nhập vào “ sân chơi” cạnh tranh khốc liệt và công bằng với các ngân hàng nước ngoài có ưu thế về vốn, kinh nghiệm quản lí, công nghệ tiên tiến nhất
Đồng thời cũng mở ra những cơ hội phát triển cụ thể là:
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng tiếp cận với các kiến thức và kinh nghiệm quản lí từ các nước tiên tiến trên thế giới, tận dụng được nguồn vốn, công nghệ hiện đại của nước ngoài. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế làm cho hệ thống ngân hàng minh bạch, hoạt động có hiệu quả và an toàn hơn.
- Cạnh tranh là động lực để các ngân hàng nâng cao chất lượng hoạt động, mở rộng phạm vi, tăng cường khả năngthanh toán cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Do vậy, yêu cầu đối với các NHTMNN hiện nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao nội lực. Cổ phần hoá được coi là giảI pháp giúp đẩy nhanh mục tiêu trên, là một bước đi đầu đảm bảo vừa tăng vốn để đạt chuẩn mực quốc tế vừa tạo dựng cơ chế quản lí kinh doanh ngân hàng hiện đại phù hợp với xu thế của thời đại. Sự lớn mạnh của các NHTMNN sau cổ phần hoá góp phần quan trọng vào việc xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, nhà nước cũng sẽ đảm bảo được quyền kiểm soát hay chi phối đến hoạt động của các ngân hàng với một tỉ lệ cổ phần nhất định
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1 SỰ THIẾU MINH BẠCH TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TĂNG VỐN GÂY RỦI RO CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ VÀ LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN UY TÍN CỦA NGÂN HÀNG TRONG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trước khi tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước phải tăng vốn để đạt tới chỉ tiêu an toàn vốn theo quy định là 8%. Để làm được điều đó, các ngân hàng thương mại nhà nước phải phát hành trái phiếu để tăng vốn. Theo hình thức này, ngân hàng thương mại nhà nước sẽ cam kết với nhà đầu tư mua trái phiếu về quyền được mua cổ phiếu khi ngân hàng cổ phần hóa.
Tuy nhiên, vấn đề tăng vốn bằng phát hành trái phiếu của ngân hàng là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Và không chỉ có giới lãnh đạo mà ngay cả những người làm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng vẫn còn có cách đặt vấn đề chưa rõ ràng. Điều đó khiến cho công chúng cũng như các nhà đầu tư trở nên hoang mang, cho rằng có một số vấn đề không minh bạch đang diễn ra. Hầu hết các ngân hàng thương mại nhà nước không đưa ra tỉ lệ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu là bao nhiêu hay thời gian để thực hiện quyền ưu đãi mua cổ phiếu của các trái chủ cũng chưa được xác định cụ thể. Sự thiếu minh bạch như vậy khiến cho các nhà đầu tư phải chịu nhiều rủi ro và ngay chính bản thân ngân hàng cũng bị giảm sút uy tín.
Các nhà đầu tư luôn sẵn sàng bỏ tiền ra cho quá trình tăng vốn của ngân hàng thương mại nhà nước vì họ kì vọng rằng giá trị của ngân hàng sau khi cổ phần hóa sẽ tăng lên và họ chính là những người được hưởng thành quả đó. Nếu trong quá trình phát hành trái phiếu chuyển đổi mà có gì đó không bảo đảm thì rõ ràng việc đầu tư như vậy phải chịu nhiều rủi ro và hệ quả tất yếu là sự suy giảm tinh thần cũng như lòng tin của các nhà đầu tư. Điều đó gây ảnh hưởng xấu cho các ngân hàng thương mại nhà nước tiến hành cổ phần hóa( đặc biệt là những ngân hàng tiến hành cổ phần hóa sau).
Trong thực tế, việc phát hành trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2005 đã chứng minh cho những rủi ro mà các nhà đầu tư gặp phải khi mua trái phiếu. Trái phiếu tăng vốn năm 2005 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam thực chất không phải là trái phiếu chuyển đổi mà là trái phiếu tăng vốn có kèm theo quyền mua cổ phiếu phổ thông của ngân hàng theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa. Nói cách khác, các trái chủ chỉ được tham gia đấu thầu không cạnh tranh khi ngân hàng thực hiện cổ phần hóa và dùng tiền gốc lẫn tiền lãi trái phiếu để mua cổ phiếu theo giá đấu giá. Có thể thấy các rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải khi mua những trái phiếu đó là như sau:
Rủi ro về thời gian thực hiện quyền ưu đãi mua cổ phiếu: Theo Quyết định số 230/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/9/2005 về việc cổ phần hóa ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì ngân hàng Ngoại thương sẽ thực hiện bán cổ phần trong năm 2006. Tuy nhiên, thời điểm tiến hành bán đấu giá lần đầu ra công chúng chỉ được xác định khi có quyết định của Chính phủ về thời điểm cổ phần hóa ngân hàng Ngoại thương và trên thực tế, cho đến 2008 ngân hàng Ngoại thương mới tiến hành bán cổ phần.
Rủi ro về mức giá chuyển đổi: mức giá chuyển đổi được xác định dựa trên kết quả bán đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng và phụ thuộc hoàn toàn vào quan hệ cung câu vào thời điểm bán đấu giá. Mặt khác, phương thức lựa chọn mức giá trúng thầu khi đấu giá cũng ảnh hưởng tới mức giá chuyển đổi. Giá chuyển đổi càng cao thì hệ số chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu càng thấp.
Rủi ro về số lượng cổ phiếu chuyển đổi: Ngân hàng Ngoại thương cho rằng sẽ có đủ số lượng cổ phiếu để các trái chủ thực hiện quyền chuyển đổi tại lần đầu phát hành cổ phiếu vì “ hình thức cổ phần hóa là giữ nguyên vốn nhà nước tại ngân hàng, phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn và việc bán cổ phiếu theo nhiều đợt, mỗi đợt không quá 10% vốn điều lệ để tăng vốn”. Thế nhưng đó mới chỉ là dự kiến của ngân hàng. Và Chính phủ mới là người có thẩm quyền quyết định ngân hàng cổ phần hóa theo hình thức nào, số lượng cổ phiếu được phép phát hành ra công chúng và dành cho trái chủ được thực hiện việc chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.
Hiện tượng phát hành trái phiếu không minh bạch như trên có nhiều lí do. Về phía ngân hàng, do sức ép tài chính và yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa mà phải tăng vốn càng nhanh càng tốt, lãi suất huy động càng thấp càng tốt. Về phía nhà đầu tư, do chưa tìm hiểu kĩ về cơ chế phát hành cũng như tâm lí đầu tư theo đám đông mua trái phiếu của ngân hàng.
Cách thức phát hành trái phiếu huy động vốn như vậy có thể giúp cho ngân hàng thương mại nhà nước đạt được mục tiêu tăng vốn một cách nhanh chóng với lãi suất thấp. Nhưng về lâu về dài mà nói thì nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín của ngân hàng. Các nhà đầu tư có thể đánh giá mức độ tín nhiệm thấp đối với các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa. Mặt khác, trong thời gian gần đây trái phiếu chuyển đổi của một vài ngân hàng có hiện tượng sụt giá phản ánh rõ thái độ xem xét lại của nhà đầu tư đối với trái phiếu này. Điều đó khiến cho các ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện cổ phần hóa sau gặp kho khăn trong việc tăng vốn theo hình thức phát hành trái phiếu như vậy.
2.2 KHÓ KHĂN TRONG VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ NGÂN HÀNG
Vấn đề xác định giá trị ngân hàng có thể nói là vướng mắc cơ bản nhất trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Xuất phát từ những đặc thù về chức năng và lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng mà việc xác định giá trị ngân hàng khi tiến hành cổ phần hóa là rất khó khăn và phức tạp. Phần lớn tài sản của ngân hàng là những loại tài sản mà giá trị của chúng rất khó xác định. Đó là giá trị thương hiệu, là các khoản tín dụng, là các tài sản vô hình khác… Xác định giá trị của những tài khoản đó không giống như xác định giá trị những tài sản thông thường khác, không dựa vào giá trị sổ sách, mệnh giá hay giá thị trường mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như: tình hình kinh doanh của ngân hàng, mực độ rủi ro, tính thanh khoản, mức sinh lời dự tính, tỷ giá hối đoái…
2.3 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TỔ CHỨC TƯ VẤN CỔ PHẦN HÓA
Cổ phần hóa ngân hàng là một vấn đề rất nhạy cảm. Đảng và Nhà nước ta đã coi ngân hàng chính là huyết mạch của nền kinh tế, đặc biệt các ngân hàng thương mại nhà nước lại được coi là chủ lực của hệ thống ngân hàng quốc gia. Cho nên, việc tìm được đối tác thẩm định giá trị ngân hàng và tư vấn cho quá trình cổ phần hóa là điều không hề đơn giản. Trong thực tế, việc lựa chọn nhà tư vấn cổ phần hóa cho ngân hàng thương mại nhà nước đều thực hiện chậm trễ so với dự kiến của các ngân hàng.
Hiện nay, nguyên tắc lựa chọn các tổ chức tư vấn tiềm năng là: Tổ chức tư vấn tài chính độc lập, có uy tín quốc tế, có kinh nghiệm thực hiện tư vấn cổ phần hóa ngân hàng thương mại, có định chế tài chính, có đội ngũ phân tích ngành ngân hàng, có kinh nghiệm trong việc tư vấn phát hành cổ phiếu tại Châu á và các thị trường mới nổi hoặc có kinh nghiệm đối với hoạt động cổ phần hóa tại các nước thuộc khối Chủ nghĩa xã hội trước đây, có kinh nghiệm làm việc tại Việt Nam và hoạt động của ngân hàng cổ phần hóa, sử dụng các bảng đánh giá mới nhất để đánh giá kinh nghiệm của các nhà tư vấn. Đồng thời, quy trình lựa chọn tổ chức tư vấn quốc tế gồm 4 bước với sự tham gia xét duyệt chặt chẽ của ngân hàng được cổ phần hóa, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính để lựa chọn tổ chức tư vấn cũng như mức phí trước khi giao cho ngân hàng được cổ phần hóa trực tiếp đàm phán và kí kết hợp đồng tư vấn.
Như vậy, do gặp phải những điều kiện chặt chẽ về tổ chức tư vấn, về quy trình lựa chọn, về giá cả cho nên việc lựa chọn và thuê tổ chức tư vấn là rất khó khăn. Trong điều kiện khó khăn của ngân sách Nhà nước hiện nay, các ngân hàng đành phải chấp nhận chậm tiến độ để đảm bảo cho lợi ích Nhà nước. Đó là khuyết điểm mà Ngân hàng nhà nước đã phải thừa nhận.
Hơn nữa, theo yêu cầu của Ban chỉ đạo cổ phần hóa thì ngân hàng phải đàm phán chi tiết với từng tổ chức tư vấn là ứng viên. Quá trình này cũng xảy ra rất nhiều vướng mắc do có sự khác biệt giữa yêu cầu của ngân hàng được cổ phần hóa và phương thức đề xuất giải quyết của nhà tư vấn. Yêu cầu của ngân hàng không theo các thông lệ quốc tế khiến cho nhà tư vấn trởi nên lúng túng. Có những yêu cầu vượt quá khuôn khổ tài chính và liên quan đến pháp luật mà nhà tư vấn không thể tư vấn. Minh chứng là khi ngân hàng Ngoại thương Việt Nam lựa chọn tổ chức tư vấn. Mỗi một đối tác tư vấn xác định giá trị của ngân hàng Ngoại thương theo một mức giá khác nhau. Chính phủ yêu cầu ngân hàng Ngoại thương phải chọn lựa nhà tư vấn thế nào để sau này xác định giá trị ngân hàng không làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Trong khi đó, ngân hàng Ngoại thương lại quan tâm tới việc xác định đúng giá trị thương hiệu và giúp họ phát triển sau cổ phần hóa. Có thể nói, vấn đề lớn nhất ở đây là chúng ta quá thiếu kinh nghiệm, chúng ta ra đề bài nhưng lại không rõ mình cần cái gì nên nhà tư vấn không thể giải quyết được.
2.4 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XỬ LÍ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC TRƯỚC KHI CỔ PHẦN HÓA
Theo số liệu mà Ngân hàng Nhà nước công bố gần đây thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước ở nước ta hầu hết đều ở mức thấp. Những số liệu đó được đưa ra dựa trên kết quả phân loại nợ theo Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ của ngân hàng. Tuy nhiên, theo báo cáo kiểm toán của một số tổ chức kiểm toán quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam là rất cao, lên tới hàng chục phần trăm. Vấn đề là ở chỗ quan điểm phân loại nợ theo các quy định pháp luật Việt Nam có sự khác biệt rất lớn so với các tiêu chuẩn quốc tế.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng nhà nước thì: “ Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3( dưới chuẩn), nhóm 4( nghi ngờ) và nhóm 5( có khả năng mất vốn)”. Cụ thể là nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và gốc trên 90 ngày. Đồng thời, tại Điều 7 của Quyết định cũng quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạc toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Như vậy, nợ xấu theo pháp luật Việt Nam được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Định nghĩa trên có thể coi là đã sát với thông lệ quốc tế trong cách hiểu về nợ xấu. Tuy nhiên, việc áp dụng nó trong thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng tới thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Cho đến nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều mới chỉ hạch toán nợ xấu theo thời gian quá hạn trên 90 ngày còn việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng đang gặp rất nhiều khó khăn và phần lớn các ngân hàng đều chưa hoặc đang thí điểm áp dụng yếu tố này.
Một lí do khác là tình trạng tài chính của một bộ phận lớn các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đều gặp rất nhiều khó khăn, vốn tự có chỉ đạt từ 5%- 10% tổng vốn hoạt động, khả năng sinh lời rất thấp… Và vì vậy, nếu các ngân hàng thương mại áp dụng phương pháp phân tích dòng tiền tương lai và xếp hạng tín dụng thì đa số các doanh nghiệp đó không thể vay vốn, toàn bộ số nợ hiện tại của họ có thể xếp hạng là nợ xấu. Tình trạng đó khiến cho các ngân hàng thương mại lúng túng và thường thì các ngân hàng vẫn cho vay cũng như không coi đó là nợ xấu.
Việc xác định nợ xấu như vậy là dựa nhiều trên cơ sở định lượng mà chưa coi trọng cơ sở định tính, chưa tuân theo các tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế. Các ngân hàng thương mại nhà nước trên thực tế vẫn có thể cho vay đảo nợ, biến nợ quá hạn thành nợ trong hạn, gia hạn nợ…
Khi cổ phần hóa và hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ vấp phải nhiều khó khăn do tiêu chuẩn phân loại nợ còn cách xa thực tế. Quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước đòi hỏi phải giải quyết triệt để các tranh chấp kinh tế, giải quyết nợ xấu, nợ tồn đọng…Việc xử lí nợ xấu với thực trạng như vậy sẽ tốn rất nhiều thời gian, gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình cổ phần hóa.
2.5 KHÓ