Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty,
xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử
dụng số vốn đó để cho vay, chiết kh ấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung
cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng
nói trên. Ngân hàng thương mại là lo ại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến
trong nền kinh tế.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ
rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt đ ộng, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác”.
57 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công cụ phái sinh và nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các công cụ phái sinh của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Tiểu luận
CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ NGHIỆP VỤ KINH
DOANH NGOẠI TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI
SINH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trang 2
CHƯƠNG 1: CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH
NGOẠI TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty,
xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử
dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung
cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng
nói trên. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến
trong nền kinh tế.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ
rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác”.
1.1.2 Các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM.
1.1.2.1 Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ nợ).
Là nghiệp vụ hình thành trên các nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các
nguồn vốn của NHTM bao gồm:
a. Vốn điều lệ và các quỹ:
- Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt
động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu
theo quy định của pháp luật (ở các nước và ở Việt Nam đều có quy định mức vốn
pháp định cho mỗi loại hình ngân hàng). Vốn điều lệ được Ngân sách nhà nước cấp
phát nếu là ngân hàng công, do các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là ngân
hàng cổ phần. Vốn điều lệ có thể được thay đổi theo xu hướng tăng lên nhờ được
Trang 3
cấp bổ sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp mỗi nước. Vốn điều lệ được sử
dụng trước hết để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, các phương tiện làm việc và
quản lý, tức là tạo cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra
các ngân hàng thương mại còn được phép sử dụng vốn điều lệ để hùn vốn, liên
doanh, cấp vốn cho các công ty trực thuộc và thực hiện các hoạt động kinh doanh
khác.
- Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt
động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ
sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư
phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi)... Ngoài ra, còn có các quỹ được hình
thành bằng cách trích và tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu
hao cơ bản, sửa chữa tài sản, dự phòng để xử lý rủi ro...
b. Vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
Nguồn vốn huy động gồm có: tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng; tiền gửi
có kỳ hạn của các tổ chức; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn của dân cư;
nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân
hàng, chứng chỉ tiền gửi...
c. Nguồn vốn đi vay:
Trong trường hợp vốn tự có và vốn huy động không đáp ứng đủ nhu cầu kinh
doanh, ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các chủ thể sau:
- Vay của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức được tái cấp vốn như chiết
khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay
lại theo hợp đồng tín dụng...
- Vay của các ngân hàng thương mại khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp
đồng mua lại...
Trang 4
- Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế...
d. Nguồn vốn khác:
Vốn tiếp nhận từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án
theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay ủy thác, vốn chiếm
dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt...
1.1.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn (Nghiệp vụ có).
Với nguồn vốn có được, ngân hàng sử dụng cho các hoạt động sau:
a. Thiết lập dự trữ:
Các ngân hàng thương mại không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh, mà phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu
sau: duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện lệnh
rút tiền thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến
hạn, chi trả lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực
hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng...
Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân
hàng khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
b. Cấp tín dụng:
Bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn); chiết khấu thương
phiếu và chứng từ có giá; cho thuê tài chính; bảo lãnh, bao thanh toán...
c. Đầu tư tài chính:
Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình
thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức
đầu tư tài chính bao gồm: góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí
nghiệp, các tổ chức tín dụng khác và mua chứng khoán, các giấy tờ có giá trị để
hưởng lợi tức, chênh lệch giá.
d. Sử dụng vốn cho các mục đích khác:
Mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ
sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác.
Trang 5
1.1.2.3 Nghiệp vụ trung gian (Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác).
Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được
các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ ủy thác; tổ chức thanh
toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu
cầu khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán,
phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn về tài chính, đầu
tư...
Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập
nhau mà chúng có mối quan hệ hỗ tương với nhau trong quá trình kinh doanh của
ngân hàng.
1.2 Công cụ phái sinh.
1.2.1 Khái niệm.
Công cụ phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở
những công cụ đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công
cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất...
Trên thị trường ngoại hối có 5 nghiệp vụ cơ bản được giao dịch đó là: giao
ngay (spot), kỳ hạn (forward), hoán đổi (swap), giao sau (future) và quyền chọn
(option). Trong đó giao ngay được xem là nghiệp vụ cơ bản, các nghiệp vụ còn lại
được xem là phái sinh.
1.2.2 Lịch sử hình thành thị trường công cụ phái sinh.
Từ sự khởi đầu đơn giản với future và forward...
Thị trường future có thể được xem như đã xuất hiện từ thời trung cổ. Lúc đầu
đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà
phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt
sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong
những tháng sau đó. Đến những năm thập niên 80 của thế kỷ 20, các hợp đồng
Trang 6
future bắt đầu nở rộ và phổ biến trong các giao dịch thương mại.
Hầu hết các thị trường forward phát triển sớm là các thị trường ngoại hối,
còn được gọi là thị trường liên ngân hàng (interbank market). Thị trường này phát
triển nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên
1970. Thị trường liên ngân hàng bao gồm hàng trăm ngân hàng khắp thế giới, họ là
những người thay mặt cho chính họ hoặc cho khách hàng thực hiện các cam kết
giao sau và kỳ hạn với nhau.
... đến những công cụ hiệu quả như swap và option.
Swap cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp
đồng. Các giao dịch hoán đổi là động lực chính của những tăng trưởng trên hợp
đồng kỳ hạn.
Giao dịch đầu tiên của thị trường option bắt đầu ở châu Âu và Mỹ từ đầu thế
kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong
những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất
định đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng của họ. Vào đầu những năm
1900, một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh
quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người
mua và những người bán lại với nhau. Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade
lập thị trường mới, Chicago Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi
option về cổ phiếu. Từ đó thị trường option trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Đến
thập niên 80 của thế kỷ 20, thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán
và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi
giao dịch option ngoại tệ đầu tiên.
1.2.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường.
1.2.3.1 Nhà bảo hộ giá (Hedger).
Chúng ta xem xét tình huống sau: Công ty Import Co.Ltd có một hợp đồng
trị giá 1 triệu USD, thời hạn thanh toán là 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở
thời điểm hiện tại: 15.990, tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn:
Trang 7
chưa biết. Công ty Import Co.Ltd đứng trước rủi ro nếu USD lên giá so với VND ở
thời điểm thanh toán. Sự lên giá này của USD có thể gây ra cho Import Co.Ltd tổn
thất giao dịch bằng trị giá hợp đồng nhân cho chênh lệch tỷ giá giữa hai thời điểm
thanh toán và ký kết. Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ngân hàng mua
quyền chọn mua có những nội dung sau:
- Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD.
- Tỷ giá thực hiện (E): 16.010.
- Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ: 20 đồng. Tổng chi phí
mua quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng.
- Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ.
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng.
Ở thời điểm này, Import Co.Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để mua
công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy
ra nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao
dịch khi quyền chọn đáo hạn như sau:
- Nếu tỷ giá mua giao ngay Sb > E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện
quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = 1 triệu USD
x 16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu.
Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu
VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm
nhưng vẫn được cố định ở mức 16.010 + 20 = 16.030 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro
ngoại hối được kiểm soát.
- Nếu tỷ giá giao ngay Sb < E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện
quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản
phải trả là V(Sb) = 1 triệu USD x Sb = Sb triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp
trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá
trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm lên đến (Sb + 20) triệu VND. Giá trị
này chưa được cố định nhưng bị chặn trên tối đa ở mức 16.030 triệu VND, vì Sb <
Trang 8
16.010. Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát.
Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu
đi nữa thì giá trị phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở
mức tối đa là 16.030 triệu VND.
1.2.3.2 Nhà đầu cơ (Speculator).
Chúng ta có thể sử dụng các công cụ phái sinh cho mục đích đầu cơ. Để làm
rõ việc sử dụng công cụ phái sinh vào mục đích đầu cơ như thế nào chúng ta xem
xét tình huống sau: Đang ở thời điểm hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2028, ông A dự
báo rằng trong tương lai EUR sẽ lên giá so với USD và tỷ giá có thể lên đến
EUR/USD = 1,2928.
Ông A mua EUR và chờ giá lên sẽ bán ra lấy lời trong tương lai. Dĩ nhiên là
việc mua EUR để đầu cơ này là một việc làm rủi ro vì nếu EUR không lên giá đúng
như dự đoán của mình thì ông A sẽ lỗ. Nhưng là người có kinh nghiệm và bản lĩnh
ông A tin chắc vào sự dự đoán của mình và kỳ vọng kiếm lời mỗi EUR được
(1,2928 – 1,2028) = 0,09 USD. Chẳng hạn để kiếm được 11.250 USD ông A phải
mua 125.000 EUR. Để mua được 125.000 EUR ngay thời điểm hiện tại ông A phải
bỏ ra 125.000 x 1,2028 = 150.350 USD. Với số tiền USD phải bỏ ra khá lớn khiến
ông A có thể ngậm ngùi nhìn cơ hội kiếm 11.250 USD trôi qua trong tiếc nuối vì
không có tiền mua 125.000 EUR. Nhưng ông A có thể nắm bắt cơ hội đầu cơ bằng
cách mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR thay vì mua giao ngay 125.000
EUR. Vì mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR chứ không phải mua 125.000
EUR nên ông A không cần bỏ ra ngay 150.350 USD mà chỉ cần bỏ ra 1.755 USD
ký quỹ theo yêu cầu của Sở giao dịch. Như vậy, với số tiền bỏ ra ít hơn: 1.755 USD
so với 150.350 USD ông A vẫn mua được cơ hội kiếm lời nếu như tỷ giá biến động
đúng như dự đoán của ông ta. Với hợp đồng giao sau này, hàng ngày nếu tỷ giá
EUR/USD lên đúng như dự đoán của ông A thì tài khoản của ông A sẽ được ghi có
một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm nay so với ngày hôm
trước nhân với trị giá hợp đồng. Ngược lại, nếu tỷ giá xuống, tức là ngược với dự
Trang 9
báo của ông A, thì tài khoản của ông ta sẽ bị ghi nợ một số tiền bằng chênh lệch
giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm trước so với ngày hôm nay nhân với trị giá hợp
đồng. Ngoài ra, nếu việc ghi nợ nhiều khiến cho số dư tài khoản ký quỹ của ông A
giảm xuống đến mức tối thiểu do Sở giao dịch quy định, ông A phải bỏ thêm tiền
vào cho đủ mức quy định mới được tiếp tục giao dịch.
1.2.3.3 Nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage).
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị
trường và bán lại ở một thị trường khác. Việc mua bán như vậy có khuynh hướng
làm quân bình tỷ giá giữa các thị trường khác nhau.
Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế:
GBP/USD = 1,5809 – 1,5839 ở New York
USD/EUR = 0,9419 – 0,9487 ở Frankfurt
GBP/EUR = 1,4621 – 1,4671 ở London
Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh sẽ thực
hiện các giao dịch sau đây:
1. Từ New York nhà kinh doanh bán ra 1 triệu USD ở Frankfurt được:
1.000.000 x 0,9419 = 941.900 EUR.
2. Dùng số EUR này để mua GBP ở London được:
941.900 / 1,4671 = 642.014,86 GBP.
3. Bán số GBP vừa mua được ở New York được:
642.014,86 x 1,5809 = 1.014.961,29 USD.
Lợi nhuận do kinh doanh chênh lệch tỷ giá: 1.014.961,29 – 1.000.000 =
14.961,29 USD. Tuy lợi nhuận không lớn nhưng kiếm được trong thời gian rất ngắn
và hầu như không có rủi ro nên rất hấp dẫn.
Lợi nhuận hấp dẫn này thu hút nhiều người vào cuộc. Khi có nhiều người
nhảy vào cuộc, do có nhiều người dùng USD để mua EUR ở Frankfurt nên EUR sẽ
lên giá so với USD ở Frankfurt và do có nhiều người bán EUR lấy GBP ở London
nên EUR giảm giá so với GBP ở London, cuối cùng ở New York do có nhiều người
Trang 10
bán GBP để lấy USD nên GBP sẽ giảm giá so với USD ở New York. Cơ hội kinh
doanh chênh lệch giá cũng chấm dứt nhường chỗ cho sự quân bình tỷ giá giữa ba
khu vực thị trường.
Trên thực tế còn có chi phí giao dịch và rào cản giao dịch giữa các thị
trường. Chính điều này khiến cho giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá không
phải dễ dàng thực hiện. Kết quả, cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá ít khi xuất hiện
và nếu có cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
1.2.4 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
1.2.4.1 Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (spot).
Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua, bán một số lượng ngoại tệ
giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán
trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán.
Tùy theo tập quán kinh doanh và điều kiện thị trường từng nước, có thể niêm
yết tỷ giá theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có hai cách niêm yết giá
trên thị trường giao ngay dành cho hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết
giá theo kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách hàng là ngân hàng khác trên thị trường
liên ngân hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp dành cho khách hàng thông
thường, tức khách hàng không phải là ngân hàng.
Yết giá theo kiểu Mỹ (American term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD
trên đơn vị ngoại tệ. Yết giá theo kiểu châu Âu (European term) là cách niêm yết tỷ
giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD.
Yết giá trực tiếp (direct quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị
ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. Yết giá gián tiếp (indirect
quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua một số lượng
ngoại tệ nhất định. Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm
có bảng Anh, dollar Úc và dollar New Zealand, các đồng tiền thường được yết giá
trực tiếp gồm có yên Nhật, france Thụy Sĩ, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền
khác trong đó có đồng Việt Nam. Riêng dollar Mỹ và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa
Trang 11
yết giá trực tiếp.
Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: đồng tiền
yết giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó
qua đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng
tiền khác.
Trên thị trường hối đoái giao ngay thường diễn ra quan hệ mua bán ngoại tệ
giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch hay
hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí
giao dịch và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giá mua và giá bán của một ngoại
tệ cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động
giá trị của ngoại tệ đó trên thị trường. Để có thể so sánh với các loại chi phí giao
dịch khác, chênh lệch tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần
trăm qua công thức sau:
Tỷ giá bán - Tỷ giá mua
Chênh lệch (%) = __________________________________ x 100
Tỷ giá bán
Ví dụ chúng ta có tỷ giá GBP/USD = 1,4229 – 1,4246. Chênh lệch giữa tỷ
giá mua và tỷ giá bán mà khách hàng phải chịu khi mua bán ngoại tệ với ngân hàng:
1,4246 - 1,4229
Chênh lệch (%) = ______________________ x 100 = 0,12%
1,4246
Các ngoại tệ có thị trường giao dịch tương đối rộng như USD, GBP, EUR,
JPY thường có chênh lệch giá mua bán ở mức 0,1% đến 0,5% trong khi các ngoại tệ
mà thị trường giao dịch hẹp hơn có mức chênh lệch giá cao hơn nhiều. Lý do là
ngân hàng sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua vào các mục đích như
phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ mua vào hoặc bán ra, bù đắp chi phí
giao dịch và cuối cùng là kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy với các ngoại tệ có
phạm vi giao dịch hẹp, hoặc vào những thời kỳ tỷ giá của ngoại tệ nào đó biến động
Trang 12
mạnh thì ngân hàng duy trì chênh lệch giữa giá bán và giá mua lớn hơn so với các
ngoại tệ khác hoặc so với thời kỳ tỷ giá ổn định.
Giao dịch hối đoái giao ngay được ngân hàng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay cho khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm của giao
dịch hối đoái giao ngay là không đáp ứng được nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ của
những khách hàng nào cần mua hoặc cần bán ngoại tệ nhưng việc chuyển giao
ngoại tệ chưa thực hiện ngay ở hiện tại mà sẽ được thực hiện trong tương lai. Để
đáp ứng nhu cầu này của khách hàng ngân hàng phải phát triển thêm một loại giao
dịch khác, đó là giao dịch hối đoái có kỳ hạn.
1.2.4.2 Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn (forward).
Giao dịch hối đoái có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua,
bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ
được thực hiện trong tương lai.
Tỷ giá có kỳ hạn thường được yết theo hai cách