Tiểu luận Công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của công đoàn đến người lao động

Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã khơi dậy tiềm năng của đất nước, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triễn. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều mâu thuẫn với bản chất xã hội chủ nghĩa. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo, tâm lý sùng bái đồng tiền, sự cạnh tranh sống còn của các doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cũng là mảnh đất nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, tạo cơ hội cho một bộ phận bất chấp lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, tìm mọi cách mưu lợi cho bản thân, điều này dẫn đến quyền và lợi ích của người lao động luôn bị đè bẹp, xâm hại. Vì thế Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quy định pháp luật, thành lập nên nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Trong đó, công đoàn là một tổ chức gần gũi và có những hoạt động thiết thực, có hiệu quả để bảo vệ người lao động. Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động công đoàn. Công đoàn cơ sở là tổ chức thiết thực bảo vệ người lao động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa các chủ thể tham gia lao động. Công đoàn trực tiếp bảo vệ công nhân trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập thể lao động khi giải quyết tranh chấp lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, nhất là trong giai đoạn hiện nay việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả, đồng thời nhiều doanh nghiệp và người lao động có sự nhìn nhận sai lạc về vai trò của tổ chức công đoàn. Vậy để hiểu rõ hơn nữa về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về “công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó tới người lao động”.

docx22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5922 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của công đoàn đến người lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM VÀ TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐOÀN ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG LỜI MỞ ĐẦU Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã khơi dậy tiềm năng của đất nước, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triễn. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều mâu thuẫn với bản chất xã hội chủ nghĩa. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo, tâm lý sùng bái đồng tiền, sự cạnh tranh sống còn của các doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cũng là mảnh đất nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, tạo cơ hội cho một bộ phận bất chấp lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, tìm mọi cách mưu lợi cho bản thân, điều này dẫn đến quyền và lợi ích của người lao động luôn bị đè bẹp, xâm hại. Vì thế Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quy định pháp luật, thành lập nên nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Trong đó, công đoàn là một tổ chức gần gũi và có những hoạt động thiết thực, có hiệu quả để bảo vệ người lao động. Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động công đoàn. Công đoàn cơ sở là tổ chức thiết thực bảo vệ người lao động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa các chủ thể tham gia lao động. Công đoàn trực tiếp bảo vệ công nhân trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập thể lao động khi giải quyết tranh chấp lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, nhất là trong giai đoạn hiện nay việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả, đồng thời nhiều doanh nghiệp và người lao động có sự nhìn nhận sai lạc về vai trò của tổ chức công đoàn. Vậy để hiểu rõ hơn nữa về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về “công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó tới người lao động”. CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM Khái niệm. “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (Trích: Điều 10 Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992) Lịch sử phát triển Ngày thành lập công đoàn. Ngày 28/7/1929. Tại số nhà 15 phố Hàng Nón – Hà Nội, Ban Chấp hành lâm thời Đông dương Cộng sản Đảng đã quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ nhất (tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam). Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời Tổng công hội Đỏ do đ/c Nguyễn Đức Cảnh Uỷ viên BCH Trung ương lâm thời Đông dương Cộng sản Đảng đứng đầu. Trong cuốn “Đường cách mệnh” Bác Hồ viết về tính chất nhiệm vụ tổ chức Công hội đỏ (nay là tổ chức Công đoàn Việt Nam) như sau: “Tổ chức công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi của công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Tên gọi của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ Từ năm 1929 đến nay Công đoàn Việt Nam đã qua 7 lần thay đổi tên gọi - Công Hội đỏ : 1929 – 1935 - Nghiệp đoàn Ái Hữu : 1935 – 1939 - Hội Công nhân Phản Đế : 1939 – 1941 - Hội Công nhân Cứu Quốc : 1941 – 1946 - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam : 1946 – 1961 - Tổng Công đoàn Việt Nam : 1961 – 1988 - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam : 1988 đến nay 3. Vị trí của Công đoàn Việt Nam Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam - Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng. - Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động. - Với tổ chức chính trị, xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh Công, Nông, trí thức, bình đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị quyết liên tịch…) 4. Vai trò của Công đoàn Việt Nam Vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở rộng qua các thời kỳ. Ngày nay trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại, vai trò của Công đoàn Việt Nam tác động trên các lĩnh vực: * Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị. * Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo. * Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. * Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. 5. Chức năng của Công đoàn Việt Nam Công đoàn Việt Nam có ba chức năng: - Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. - Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vị chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật. - Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và phát triển bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Như vậy chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, đan xen tương tác lẫn nhau. Trong đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động mang ý nghĩa trung tâm - mục tiêu hoạt động của công đoàn. Từ các chức năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của Công đoàn. Về bản chất, chức năng của công đoàn mang tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào sự áp đặt từ bên ngoài hay ý chí, nguyện vọng chủ quan của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức công đoàn. Trên thực tế, không nên nhận thức máy móc, cứng nhắc về chức năng của công đoàn. Bởi vì, cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng của công đoàn cũng có sự bổ sung và phát triển. Sự bổ sung, phát triển các chức năng của công đoàn không có nghĩa là phủ định, từ bỏ những chức năng đã có mà thực chất là làm phong phú thêm các chức năng; đồng thời tránh sa vào tư tưởng nóng vội, phủ định một cách vô căn cứ những chức năng của công đoàn đã được thử thách qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam. 6. Sơ đồ hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam SỰ KHÁC NHAU GIỮA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM VỚI CÔNG ĐOÀN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Liên đoàn Lao động Canada (CLU) (1872 - 1878) Liên đoàn Lao động Canada là nỗ lực đầu tiên trong thời gian ngắn tại một tổ chức trung ương quốc gia đại diện cho các công đoàn lao động tại Canada. Nó được thành lập tại Toronto, Ontario vào ngày 23 Tháng 9 năm 1873 , 46 công đoàn cơ sở . Nó không thể được gọi là một cơ quan quốc gia. Liên minh là một tổ chức chính trị với mục đích " để khuấy động những câu hỏi như có thể là vì lợi ích của các tầng lớp lao động , để chúng ta có thể có được việc ban hành các biện pháp như vậy của Dominion và cơ quan lập pháp địa phương như sẽ có lợi cho chúng ta, và bãi bỏ tất cả các luật áp bức mà bây giờ tồn tại ". Nền tảng CLU kêu gọi thời gian ngắn hơn , chấm dứt việc sử dụng lao động bị kết án sử dụng lao động tư nhân, kết thúc việc làm của trẻ em dưới mười tuổi , nhập cảnh của công nhân bị bệnh trả , thực thi các tiêu chuẩn tối thiểu về vệ sinh, thông thoáng nhà xưởng , và một văn phòng chính phủ xử lý số liệu thống kê để cung cấp thông tin về tiền lương và điều kiện làm việc . Nó được gọi là giáo dục công khai, đối lập với các công ty độc quyền phát triển và đại diện lao động trực tiếp trong cơ quan lập pháp và chính quyền thành phố . CLU không phải là một tổ chức cực đoan, bởi nó kêu gọi việc sử dụng trọng tài chứ không phải là cuộc đình công . Năm 1873 suy thoái kinh tế trên toàn thế giới đã có một tác động tàn phá trên các phong trào lao động còn non trẻ của Canada . Trong số 126 công đoàn được biết đến ở đầu thập kỷ chỉ có một ít người ở lại, cuối cùng mang lại sự sụp đổ của Liên đoàn Lao động Canada . Liên đoàn lao động Mỹ 2.1. Lịch sử hình thành Công đoàn bắt đầu hình thành trong thế kỷ 19 để đáp ứng với các tác động kinh tế xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp. Liên đoàn lao động quốc gia bắt đầu hình thành trong kỷ nguyên hậu chiến tranh dân sự. Các Liên đoàn Lao động Mỹ  được thành lập vào năm 1886.  Công đoàn khu vực nhà nước được quy định một phần bởi liên bang và một phần của pháp luật nhà nước. Nó đã cho thấy tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, cho tiền lương và điều kiện làm việc được thiết lập thông qua các cuộc đàm phán với viên chức dân cử địa phương và tiểu bang.Hầu hết các công đoàn ở Mỹ là phù hợp với một trong hai tổ chức bảo trợ lớn hơn: các AFL-CIOtạo ra vào năm 1955, và Thay đổi để chiến thắng Liên đoàn được tách từ các AFL-CIO trong năm 2005. Cả hai ủng hộ chính sách, pháp luật về đại diện của người lao động tại Hoa Kỳ và Canada, và có một vai trò tích cực trong chính trị. AFL-CIO là đặc biệt quan tâm đến vấn đề thương mại toàn cầu. (Liên đoàn Lao động Mỹ và Quốc hội của các tổ chức công nghiệp (AFL-CIO) là một trung tâm thương mại quốc gia công đoàn , Liên đoàn lớn nhất của công đoàn trong các nước Mỹ , tạo thành năm mươi sáu công đoàn quốc gia và quốc tế,  cùng đại diện cho hơn 11 triệu người lao động (tính đến tháng 6 năm 2008, số liệu thống kê chính thức gần đây nhất).  Nó được thành lập vào năm 1955 khi AFL và CIO sáp nhập sau khi một sự ghẻ lạnh từ lâu. Từ năm 1955 đến năm 2005, các đoàn thể thành viên AFL-CIO của đại diện gần như tất cả các công đoàn lao động tại Hoa Kỳ.)  2.2. Vị trí Các công đoàn Mỹ là một yếu tố chính trị nổi bật thông qua huy động các thành viên của mình và thông qua các liên minh với các tổ chức hoạt động xung quanh các vấn đề: quyền nhập cư , chính sách thương mại , y tế, và chính sách tiền lương . Công đoàn lớn hơn cũng thường tham gia vào các hoạt động vận động hành lang và vận động bầu cử ở cấp tiểu bang và liên bang . 2.3 Vai trò Liên đoàn lao động được pháp luật công nhận là đại diện của người lao động trong nhiều ngành công nghiệp ở Hoa Kỳ. Hoạt động trung tâm hiện nay của họ là thương lượng tập thể về tiền lương , lợi ích và điều kiện làm việc cho các thành viên của tổ chức , và đại diện cho các thành viên của họ trong tranh chấp với quản lý trên hành vi vi phạm các quy định của hợp đồng . 2.4 Chức năng Công đoàn lao động là một tổ chức của người lao động đã liên kết với nhau để đạt được mục tiêu chung như bảo vệ sự toàn vẹn của thương mại, đạt được mức lương cao hơn, tăng số lượng nhân viên làm thuê cho chủ sử dụng lao động, và có điều kiện làm việc tốt hơn . Công đoàn, thông qua sự lãnh đạo của nó, thương lượng với người sử dụng lao động thay mặt cho các thành viên công đoàn và thương lượng hợp đồng lao động ( thương lượng tập thể ) với nhà tuyển dụng.  Mục đích phổ biến nhất của các hiệp hội, liên hiệp là duy trì hoặc cải thiện các điều kiện làm việc.  Điều này có thể bao gồm đàm phán tiền lương , quy tắc làm việc, thủ tục khiếu nại, quy tắc quản lý tuyển dụng, sa thải và thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả, lợi ích chung, an toàn lao động và các chính sách phúc lợi khác.Một tổ chức công đoàn là "một hiệp hội liên tục làm công ăn lương với mục đích duy trì hoặc cải thiện các điều kiện của cuộc sống làm việc của họ." Theo Marx, "giá trị sức lao động là nền tảng ý thức và rõ ràng của tổ chức công đoàn, có tầm quan trọng đối với [...] giai cấp lao động có thể hầu như không được đánh giá quá cao. Công đoàn nhằm mục đích không có gì ít hơn để ngăn chặn việc giảm tiền lương dưới mức mà theo truyền thống được duy trì trong các ngành công nghiệp khác nhau. Đó là để nói, họ muốn ngăn chặn việc giá sức lao động từ rơi xuống dưới giá trị của nó "(vốn V1, 1867, p.1069). (Karl Heinrich Marx là nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế) Công đoàn có thể tổ chức một phần cụ thể của công nhân lành nghề, một mặt cắt ngang của người lao động từ các ngành nghề khác nhau, hoặc cố gắng để tổ chức tất cả người lao động trong một ngành công nghiệp cụ thể. Công đoàn tại một số nước khác trên thế giới - Ở Trung Quốc, mặc dù công đoàn gắn kết với lý tưởng cộng sản, nhưng chưa bao giờ được biết đến như một pháo đài của quyền công nhân. Tuy nhiên, tình hình đã bắt đầu thay đổi trong năm 2010 với Luật Lao động mới. Không giống như các đối tác ở Tây Âu, công đoàn Trung Quốc không khuyến khích công nhân đình công. Thay vào đó, họ phục vụ như một cơ chế quản lý để kiểm soát sự bùng phát bất ổn và một nền tảng cho đối thoại văn minh về quyền của người lao động. Phía Trung Quốc duy trì tổ chức công đoàn là vì lợi ích tốt nhất của cả người lao động và người sử dụng lao động. Mục tiêu cơ bản để tăng cường hơn nữa sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các công đoàn khá rõ ràng. Chủ tịch công đoàn phải là "nhận thức chính trị" và 85 phần trăm Chủ tịch cũng là "thành viên hàng đầu của tổ chức Đảng ". Ở Thái Lan, Luật pháp cho phép người lao động thành lập công đoàn và đề ra các yêu cầu để hình thành một liên minh. Ít nhất là mười nhân viên tại một "địa điểm kinh doanh" có thể chọn để tạo thành một liên minh và được sự chấp thuận của Bộ Lao động để tạo thành một liên minh. Nhưng chỉ có một công đoàn lao động thành lập đúng nơi mà các thành viên công đoàn lao động bao gồm ít nhất 20% tổng số nhân viên tại địa điểm kinh doanh có quyền làm cho nhu cầu đối với sử dụng lao động thay mặt cho các thành viên của công đoàn. Như vậy, một công đoàn được hình thành đúng được công nhận theo luật pháp Thái Lan sẽ không có quyền thực hiện một nhu cầu đối với nhà tuyển dụng nếu các công đoàn không đại diện cho ít nhất một phần năm của tất cả nhân viên. Đảng Lao động Úc – một tên gọi khác của Công đoàn - một đảng chính trị lớn của nước Úc. Thành lập năm 1891 xuất phát từ phong trào lao động Úc, Đảng Lao động là đảng kỳ cựu nhất trong chính trường liên bang Úc, liên tục tranh cử cho các ghế của Quốc hội Úc từ cuộc bầu cử đầu tiên sau ngày thành lập Liên bang Úc năm 1901. Trong cuộc bầu cử Liên bang Úc ngày 24 tháng 11 năm 2007, chính quyền liên bang về tay Đảng Lao động. Đảng Lao động thường tìm cách chấm dứt thực hành lao động trẻ em , nâng cao an toàn lao động , tăng tiền lương cho cả công nhân công đoàn và công nhân không thuộc công đoàn, nâng cao tiêu chuẩn sống của toàn xã hội , giảm giờ làm việc trong một tuần, cung cấp giáo dục công cộng cho trẻ em, và mang lại lợi ích khác cho các gia đình tầng lớp lao động. Tổ chức công đoàn tại Malaysia được điều chỉnh bởi các giao dịch Hành động Công đoàn năm 1959. Hiến pháp nước này bảo đảm các quyền của tất cả người Malaysia lập và gia nhập công đoàn, còn có một số hạn chế áp đặt bởi các luật liên quan đến công đoàn, nghĩa là đoàn luật 1959 (title) và Quan Hệ Công Nghiệp Đạo luật năm 1967 (IRA). Luật Công đoàn hạn chế không cho phép công đoàn đại diện chung cho người lao động. Thành viên của bất kỳ một tổ chức công đoàn là những người lao động của một ngành, một tổ chức thương mại và nghề nghiệp cụ thể. Đối với doanh nghiệp hoặc trong tổ chức công đoàn, thành viên được giới hạn cho người lao động của cơ sở, công ty cụ thể - nhân viên của công ty con của công ty hoặc một công ty liên kết không thể tham gia công đoàn đó. Lao động tạm thời, lao động hợp đồng bao gồm cả lao động nước ngoài có thể thực sự tham gia vào công đoàn là thành viên. Tuy nhiên, hầu hết các công nhân đã miễn cưỡng tham gia một liên minh vì sợ rằng hợp đồng của họ có thể không được gia hạn hoặc giấy phép lao động bị hủy bỏ, gây khó khăn cho một công đoàn đại diện cho họ. Hoạt động của công đoàn trong việc đảm bảo thoả ước tập thể tốt và để bảo vệ người lao động bị hạn chế vì công đoàn phải được sự công nhận từ nhà tuyển dụng sau khi nó có thể chứng minh bằng cách bỏ phiếu kín mà phần lớn các nhân viên đủ điều kiện là thành viên của nó. Ngay cả khi công đoàn đã có được sự công nhận cần thiết để đại diện cho người lao động, khả năng đàm phán cho lợi ích tốt hơn vẫn tiếp tục bị hạn chế vì nó là hầu như không thể cho một liên minh để tấn công. Công đoàn có thể nộp thoả ước tập thể đại diện cho các thành viên của họ nhưng IRA (Quân đội Cộng hòa Ireland) cấm các thỏa thuận như vậy để đối phó với bất kỳ vấn đề liên quan đến xúc tiến, chuyển nhượng, chấm dứt dịch vụ, miễn nhiệm. Tổ chức công đoàn của Malaysia hoạt động trong một bầu không khí chính trị không chắc chắn trong năm 2011. Luật sửa đổi luật lao động hiện hành đã được thông qua bởi Hạ viện Malaysia của Quốc hội. Sửa đổi, nếu được ban hành, sẽ cho phép người sử dụng lao động hoặc cơ quan sử dụng hợp đồng lao động để tránh công đoàn đại diện và nghĩa vụ theo luật định khác cho người lao động. Theo tổ chức công đoàn của Malaysia, tiền lương trong nước đã và đang chán nản, một phần là do sự sẵn có của lao động di cư giá rẻ đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng và sản xuất. Công đoàn của Malaysia phải vật lộn để giành chiến thắng một mức lương tối thiểu cuộc sống cho tất cả người lao động ở Đức, mối quan hệ giữa người lao động và sử dụng lao động cá nhân được coi là bất đối xứng. Kết quả là, nhiều điều kiện làm việc không thương lượng do pháp luật bảo vệ mạnh mẽ của các cá nhân. Tuy nhiên, hương vị của Đức hoặc pháp luật công trình có mục tiêu chính của nó để tạo ra một sự cân bằng quyền lực giữa các nhân viên trong tổ chức công đoàn và sử dụng lao động tổ chức, sử dụng lao động trong các hiệp hội. Điều này cho phép ranh giới pháp lý rộng hơn cho thương lượng tập thể, so với ranh giới hẹp đàm phán cá nhân. Như một
Luận văn liên quan