Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách. Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ ) và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một hệ thống Ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7247 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cục dự trữ liên bang Mỹ và các chính sách tài chính của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
BÀI TIỂU LUẬN
CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CỦA NÓ
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Minh Châu – NH8
Nguyễn Thu Hiếu – NH8
Diệp Bội Quỳnh Ngân – NH8
Lê Thị Minh THư – NH8
Lê Xuân Trinh – NH8
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 5
I. TỔNG QUAN VỀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED) 5
1) Hoàn cảnh ra đời 5
2) Cơ cấu của FED 5
3) Nhiệm vụ của FED 10
4) Tính độc lập của FED 11
II. CÁC CHÍNH SÁCH FED SỬ DỤNG ĐỂ TÁC ĐỘNG VÀO NỀN KINH TẾ MỸ ĐẶC BIỆT LÀ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2007 -2009 12
1. Chính sách tiền tệ của FED 12
2. Các chính sách FED sử dụng trong cuộc khủng hoảng 2007-2009 23
III. GIẢI PHÁP FED ĐƯA RA CHO NỀN KINH TẾ MỸ 29
1. ndsjhls 29
2.dfgdsgsdh 34
KẾT LUẬN 41
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách. Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ…) và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một hệ thống Ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được.
Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, ngân hàng trung ương (NHTW) cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì NHTW có thể coi là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế.
Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang Mỹ. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn.Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia.
Bài tiểu luận này sẽ trình bày rõ hơn và cụ thể hơn những vai trò, tầm ảnh hưởng và các chính sách nổi bật của FED đối với nền kinh tế Mỹ nói riêng và toàn thế giới nói chung qua các phần chính sau:
Tổng quan về Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Các chính sách FED sử dụng để tác động vào nền kinh tế Mỹ đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng năm 2007-2009
NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED)
Hoàn cảnh ra đời
Năm 1791, Alexander Hamilton (Hamilton là người đại diện cho quyền lợi của gia tộc Rothschild ) trình lên quốc hội phương án thành lập First Bank of the United States để giải quyết tình trạng “ thiếu tiền ”. First Bank of the United States (BUS) được vận hành theo đúng mô hình của Ngân hàng Bắc Mỹ. Thomas Willing, chủ tịch Ngân hàng Bắc Mỹ được mời giữ chức chủ tịch ngân hàng mới. Đối với quyền sở hữu, chính quyền liên bang nắm quyền sở hữu 1/5 ngân hàng trung ương này. 80% cổ phần còn lại, lẽ dĩ nhiên, thuộc về các đại gia tộc ngân hàng. Ngân hàng mới sẽ có quyền phát hành tiền và đầu tư vào các khoản nợ công và tài trợ tín dụng giá rẻ cho các nhà công nghiệp. Chính quyền liên bang cũng trao cho ngân hàng quyền được lưu ký quĩ và tài sản của chính phủ. Thời gian hoạt động được qui định là 20 năm.
Năm 1812, cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nổ ra. Chính phủ Hoa Kỳ phải phát hành rất nhiều nợ để tài trợ cho các hoạt động quân sự cực kỳ tốn kém. Từ 1811 đến 1815, số ngân hàng đã tăng 117 lên 246. Tổng số tiền kim loại các ngân hàng đã phát hành rơi vào khoảng từ 14,9 triệu đô-la (1811) đến 13,5 triệu đô-la (1815). Trong khi đó, tổng lượng tiền giấy và tiền gửi là 42,2 triệu đô-la (1811) đã tăng gần 90% sau 4 năm, đạt con số 79 triệu đô-la (1815).Việc phát hành quá nhiều tiền và tài trợ các khoản chi phí chiến tranh khổng lồ đẩy các ngân hàng vào tình trạng khó khăn và mất khả năng thanh toán. Lúc này, các cuộc tranh cãi về việc giải quyết hậu quả cho tình trạng trên trở nên gay gắt. Cuối cùng nước Mỹ một lần nữa lại lựa chọn việc thành lập ngân hàng trung ương.
Mô hình lần này cũng giống như First Bank of the United States, chỉ khác một chữ trong tên gọi: Second Bank of the United States. Cuộc chiến Anh-Pháp kết thúc cùng năm 1816. Và 80% sở hữu của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ “mới” thuộc về gia đình Rothschild và những người đại diện. Ngân hàng này có thời hạn 20 năm để thực hiện các chức năng tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, mua phần lớn nợ của chính phủ, và nhận tiền gửi của Bộ Tài chính.
Các ông chủ của Second Bank of the United States (BUS2) bắt tay cùng đại diện các ngân hàng lớn ở ngoại ô Boston và thống nhất cung cấp một khoản tín dụng trị giá 6 triệu đô-la bằng tiền đúc tại New York, Philadelphia, Baltimore, và Virginia trước khi phải nhất nhất tuân theo yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc với những khoản nợ phải thanh toán cho ngân hàng các bang. Lượng tiền đúc này được tính toán sẽ vượt xa nhu cầu chuyển đổi tiền giấy sang tiền đúc có thể phát sinh khi đạo luật mới được thực thi. Như vậy, các ngân hàng có thể thoải mái phát hành mới tiền giấy mà không lo lắng tới việc vi phạm pháp luật. “Thương vụ” giữa BUS2 và ngân hàng tại các bang đã biến qui định phải qui đổi ra tiền đúc để thanh toán chỉ còn mang tính hình thức. Nền kinh tế tiếp tục ở trong tình trạng lạm phát. Đến năm 1819, yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc bị dỡ bỏ cùng lúc với khủng hoảng kinh tế trong thời gian 1819-1821.
Cho đến năm 1836, Second Bank of United States giải tán sau khi điều lệ của ngân hàng không được gia hạn. Sau nhiều năm nội chiến của nước Mỹ, gia tộc Rothschild đã quay trở lại và lần thứ ba xác lập mô hình ngân hàng trung ương ở nước Mỹ - Hệ thống Dự trữ Liên bang, vào năm 1913.
Kế hoạch thành lập ngân hàng trung ương Hoa Kỳ lần thứ ba được một nhóm các nhà ngân hàng bí mật bàn bạc và thông qua vào tháng 11 năm 1910 sau chín ngày hội họp tại đảo Jekyll. Với những mục tiêu và kế hoạch bàn bạc đề ra. Cho tới ngày 23/12/1913, FED chính thức được quốc hội phê chuẩn thành lập và đi vào hoạt động chính thức từ năm 1915.
Cơ cấu của FED
Cục dự trữ liên bang (Federal Reserve System – Fed) là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913.
Cục dự trữ liên bang bề ngoài là ngân hàng của chính phủ nhưng thực ra là sở hữu tư nhân, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Fed hiện nay là Ben Bernanke.
FED bao gồm 12 ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên nó là một hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu. Mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo tên thành phố mà nó đặt trụ sở, chẳng hạn như Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Freancisco, trong đó Ngân hàng dự trữ New York có một vai trò nổi bật hơn so với các Ngân hàng còn lại.
Theo tòa án tối cao Mỹ, các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của chính quyền liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang cũng có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một số phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng. Các Ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do FED phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Bản đồ các khu vực quản lý của các ngân hàng Fed khu vực
12 ngân hàng khu vực dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.
Cổ tức được trả dưới dạng khoản bù vào lãi suất cho phần dự trữ thiếu hụt được giữ tại Fed. Theo quy định của luật pháp, mỗi ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà phần lớn đặt tại Fed. Cục dự trữ liên bang không trả lãi suất cho các khoản dự trữ này.
Mỗi ngân hàng Fed khu vực được ký hiệu bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành.
Boston A
New York B
Philadelphia C
Cleveland D
Richmond E
Atlanta F
Chicago G
St Louis H
Minneapolis I
Kansas City J
Dallas K
San Francisco L
Các ngân hàng thành viên
Tất cả các ngân hàng đều là thành viên của FED, phải tuân thủ một mức dự trữ bắt buộc nhất định, được vay tiền từ FED, được thanh toán bù trừ tại FED, chịu sự giám sát về các hoạt động bởi FED
Hội đồng thống đốc
Lãnh đạo FED là Hội đồng thống đốc, gồm có 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. Bảy thành viên của ban Thống đốc đóng vai trò là cơ quan quyết định các chính sách tiền tệ Mỹ. Nhiệm kì của mỗi thành viên Hội đống thống đốc kéo dài 14 năm, các thành viên chỉ có thể đựoc tái bổ nhiệm nếu nhiệm kì trước của thành viên đó không phải là một nhiệm kì trọn vẹn. Hội đồng ấn định mức dự trữ bắt buộc và kiểm soát lãi suất tái chiết khấu.
Ủy ban thị trường tự do liên bang (FOMC)
Ủy ban bao gồm 12 thành viên, trong đó có 7 thành viên của hội đồng thống đốc, chủ tịch ngân hàng Dự trữ liên bang New York và các chủ tịch của 4 ngân hàng Dự trữ liên bang khác thường xuyên tiến hành việc chỉ đạo các nguồn vụ thị trường tự do. Vì các nghiệp vụ thị trường tự do là một công cụ quan trọng của FED để kiểm soát cung ứng tiền tệ nên FOMC là tiêu điểm cho việc hoạch định chính sách của hệ thống Dự trữ liên bang.
Vị trí của các thành viên xoay vòng theo nhóm 4 thành viên, trong đó có 1 ngân hàng chủ tịch từ mỗi nhóm:
Boston, Philadelphia, Richmond.
Cleveland và Chicago.
Atlanta, St. Louis và Dallas
Minneapolis, Kansas City và San Francisco
Những chủ tịch ngân hàng dự trữ không bầu cử tham gia vào những cuộc họp của Ủy ban, tham gia thảo luận, và xây dựng những đánh giá của Ủy ban đối với nền kinh tế và sự lựa chọn các chính sách.
FOMC tổ chức 8 cuộc họp thường kì hằng năm. Trong những cuộc họp này, Ủy ban xem lại nền kinh tế và những điều kiện tài chính, quyết định quan điểm về chính sách tiền tệ thích hợp, đánh giá rủi ro của mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn.
Những thành viên của FOMC trong năm 2012:
Ben S. Bemanke, Board of Governors, Chairman
William C. Dudley, New York, Vice Chair man
Elizabeth A. Duke, Board of Governors
Jeffrey M.Lacker, Richmond
Dennis P. Lockhart, Atlanta
Sandra Bloom Raskin, Board of Governors
Daniel K. tarullo, Board of Governors
John C. Williams, San Fransisco
Janet L. Yellen, Board of Governors.
Những thành viên thay thế:
James Bullard, St. Louis
Charles L. Evan, Chicago
Esther George, Kanas City
Eric S. Rosengren, Boston
Christine M. Cumming, First Vice president, New york
Thành viên Ủy ban thay đổi vào cuộc họp thường niên đầu tiên của năm nay.
2013
2014
2015
Thành viên
New York
Chicago
Boston
St. Louis
Kansas City
New York
Cleveland
Philadelphia
Dallas
Minneapolis
New York
Chicago
Richmond
Atlanta
San fransisco
Thành viên thay thế
New York+_
Cleveland
Philadelphia
Dallas
Minneapolis
New York+_
Chicago
Richmond
Atlanta
San fransisco
New York+_
Chicago
Boston
St. Louis
Kansas City
Nhìn bề ngoài cơ cấu phức tạp của FED, hẳn không phải ai cũng đặt ra câu hỏi “Ai thực sự nắm giữ FED?”. Theo Eustace Mullins, tác giả cuốn sách “ Bí mật của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ”- Secrets of Federal Reserve thì Ngân hàng New York là ngân hàng “khống chế thực tế” của hệ thống Cuc Dự trữ Liên bang Mỹ.
Tuy nhiên Ban Thống đốc của FED vẫn chịu “sự thao túng” của các nhà tài phiệt. Vấn đề là ở chỗ, bên cạnh sự tồn tại của Hội đồng Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn liên bang. Hội đồng Tư vấn liên bang này do 12 đại diện của ngân hàng điạ phương thuộc cục dự trữ Liên bang, có quyền bỏ phiếu như nhau khi thông qua các quyết định. Chính hội đồng tư vấn liên bang này là người đề xuất các kiến nghị về chính sách tiền tệ cho Hội đồng Thống đốc. Bề ngoài là công bằng, khách quan nhưng không ai đảm bảo rằng quyền của Ngân hàng nhỏ ở Dallas có quyền ngang hàng với ngân hàng ở New York mà ngân hàng ở Ngân hàng ở New York thì luôn là đại diện cho các nhà tài phiệt phố Wall. Vậy ai thực sự nắm giữ FED? Câu trả lời là các nhà tài phiệt phố Wall- nhưng cụ thể họ là ai thì chưa ai xác định rõ, họ vẫn đứng đằng sau tấm rèm chỉ đạo hoạt động của FED.
Nhiệm vụ của FED
Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn định và lãi suất hợp lí.
Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (FED) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi FED bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ FED: Các ngân hàng thành viên của FED vay tiền từ FED để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, đến số lượng tiền các thành viên sẽ được vay.
Giám sát và quản lí các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an toàn để gửi tiền và bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng. chính phủ Mỹ và Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát hành tiền,….
Tiến hành các nghiên cứu về nên kinh tế Mỹ cũng như kinh tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo giáo dục qua website.
Tính độc lập của FED
Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW: (1) NHTW độc lập với chính phủ; (2) NHTW là một cơ quan thuộc chính phủ; và (3) NHTW thuộc Bộ Tài chính. Trong đó, hai mô hình đầu tiên là phổ biến hơn cả.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTW được xem như nền tảng của những cải cách về mặt thể chế để giảm sự can thiệp bất hợp lý của chính trị đến quá trình xây dựng và thực thi CSTT nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Lý do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng và điều hành CSTT mà có sự can thiệp chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm gia tăng tính tạm thời và không bền vững của kinh tế vĩ mô, đặt biệt là nguy cơ bùng nổ lạm phát và theo đó hạn chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra.
Mặc dù Chính phủ giữ quyền thông qua đạo luật cho ra đời Hệ thống Dự trữ Liên bang, FED hoạt động rất độc lập. Chi tiết các giao dịch của FED chưa bao giờ được công bố. Quốc hội và Bộ Tài chính chỉ biết chính xác số tiền mà FED nộp hàng năm vào ngân sách quốc gia. Một con số lớn. Doanh thu thực sự của FED vẫn luôn là ẩn số.
Các bộ phận của Cục dự trữ liên bang (Fed) có tư cách pháp lý khác nhau.Hội đồng Thống đốc của Fed là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ.
Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung.
Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Các ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do Fed phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Nói chung, các nghiên cứu về NHTW thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTW chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc lập của NHTƯ cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTW độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.
CÁC CHÍNH SÁCH FED SỬ DỤNG ĐỂ TÁC ĐỘNG VÀO NỀN KINH TẾ MỸ ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG 2008
Chính sách tiền tệ của FED
Chính sách lãi suất
Về cơ bản FED đang điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng đó là Lãi suất chiết khấu (Discount rate) và Lãi suất quĩ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
Các loại lãi suất FED áp dụng
Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
FFR là công cụ được FED sáng tạo muộn hơn so với công cụ lãi suất chiết khấu. Nó bắt đầu được FED sử dụng từ những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX. Trong khi đó công cụ lãi suất chiết khầu được sử dụng ngay từ khi FED thành lập.
Quỹ dự trữ liên bang hình thành từ l