Loài người với hàng nghìn năm phát triển của mình đã là nhân chứng, tác nhân cho sự đổi thay hàng ngày hàng giờ của chính thế giới mình tồn tại. Cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người đã và đang là động lực thúc đẩy thế giới ngày càng phát triển.Triết học với vai trò một hình thái ý thức xã hội là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy cũng không nằm ngoài cuộc đấu tranh gay gắt ấy. Nếu sự phát triển của thế giới được thể hiện bằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, hình thái xã hội; bằng sự phủ định lẫn nhau của các chế độ xã hội thì lịch sử phát triển của triết học lại được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của triết học. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Thường thường chủ nghĩa duy vật thể hiện thế giới quan của những lực lượng tiến tiến, tiến bộ của xã hội , còn chủ nghĩa duy tâm (tuy không phải bao giờ cũng vậy) là thế giới quan của những lực lượng suy tàn, phản động và bảo thủ trong xã hội. Chủ nghĩa duy vật khẳng định tính thứ nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức, con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ngược lại chủ nghĩa duy tâm khẳng định tính thứ nhất có trước của ý thức, phủ nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới. Dù sao bất kỳ hệ thống triết học nào cũng đều phải xuất phát từ các vấn đề cơ bản của triết học, từ đó xây dựng toàn bộ hệ thống trên cơ sở giải quyết các vấn đề đó. Cũng như sự phong phú của thế giới cuộc đấu tranh trong triết học diễn ra với nhiều hình thức, mức độ khác nhau, cuộc đấu tranh này vừa là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng, thế giới quan đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của một bộ môn khoa học. Trên con đường đến với chân lý ấy những nhà triết học, những trường phái triết học không những đấu tranh với nhau mà gay gắt hơn còn phải đấu tranh với chính mình. Trong tiểu luận này chúng ta làm rõ vấn đề lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh của hai khuynh hướng triết học Duy vật và Duy tâm. Đồng thời rút ra ý nghĩa phương pháp luận bản thân
Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần:
Lịch sử triết học (20 trang)
Phần I: Sự đấu tranh giữa tư tưởng của các nhà triết học và các trường phái triết học.
Phần II: Cuộc đấu tranh tư tưởng trong bản thân các trường phái triết học, các nhà triết học.
Phần III: Ý nghĩa phương pháp luận.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2455 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cuộc đấu tranh tư tưởng trong bản thân các trường phái triết học, các nhà triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Loài người với hàng nghìn năm phát triển của mình đã là nhân chứng, tác nhân cho sự đổi thay hàng ngày hàng giờ của chính thế giới mình tồn tại. Cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người đã và đang là động lực thúc đẩy thế giới ngày càng phát triển.Triết học với vai trò một hình thái ý thức xã hội là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy cũng không nằm ngoài cuộc đấu tranh gay gắt ấy. Nếu sự phát triển của thế giới được thể hiện bằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, hình thái xã hội; bằng sự phủ định lẫn nhau của các chế độ xã hội thì lịch sử phát triển của triết học lại được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của triết học. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Thường thường chủ nghĩa duy vật thể hiện thế giới quan của những lực lượng tiến tiến, tiến bộ của xã hội , còn chủ nghĩa duy tâm (tuy không phải bao giờ cũng vậy) là thế giới quan của những lực lượng suy tàn, phản động và bảo thủ trong xã hội. Chủ nghĩa duy vật khẳng định tính thứ nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức, con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ngược lại chủ nghĩa duy tâm khẳng định tính thứ nhất có trước của ý thức, phủ nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới. Dù sao bất kỳ hệ thống triết học nào cũng đều phải xuất phát từ các vấn đề cơ bản của triết học, từ đó xây dựng toàn bộ hệ thống trên cơ sở giải quyết các vấn đề đó. Cũng như sự phong phú của thế giới cuộc đấu tranh trong triết học diễn ra với nhiều hình thức, mức độ khác nhau, cuộc đấu tranh này vừa là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng, thế giới quan đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của một bộ môn khoa học. Trên con đường đến với chân lý ấy những nhà triết học, những trường phái triết học không những đấu tranh với nhau mà gay gắt hơn còn phải đấu tranh với chính mình. Trong tiểu luận này chúng ta làm rõ vấn đề lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh của hai khuynh hướng triết học Duy vật và Duy tâm. Đồng thời rút ra ý nghĩa phương pháp luận bản thân
Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần:
Lịch sử triết học (20 trang)
Phần I: Sự đấu tranh giữa tư tưởng của các nhà triết học và các trường phái triết học.
Phần II: Cuộc đấu tranh tư tưởng trong bản thân các trường phái triết học, các nhà triết học.
Phần III: Ý nghĩa phương pháp luận.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Sự đấu tranh giữa tư tưởng của các nhà triết học và các trường phái triết học.
Ngay từ những bước đi đầu tiên của mình, triết học đã chứng minh sự phát triển của nó bằng những cuộc đấu tranh giữa những luồng tư tưởng khác nhau về các vấn đề của thế giới . Dọc theo chiều dài của lịch sử triết học dù phương Đông hay phương Tây ta đều nhận thấy sự đối lập nhau trong cách nhìn nhận, xem xét, đánh giá thế giới trong mỗi hệ tư tưởng hay trong mỗi nhà triết học mà qua đây ta cũng thấy được sự đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp thế lực mà họ đang đại diện.
Xem xét triết học phương Đông ngay từ những ngày đầu của lịch sử phát triển loài người với hai đại diện lớn nhất của nó : Ấn Độ và Trung Hoa ta dễ dàng làm rõ được vấn đề này. Trước tiên đề cập đến lịch sử phát triển của Ấn độ cổ đại với nền văn minh sông Ấn ra đời từ những năm đầu của thiên niên kỷ thứ III đầu thiên niên kỷ thứ II trước C.N. và sau nó là thời kỳ VEDA với sự hình thành của xã hội chiếm hữu nô lệ và các đẳng cấp ra đời bước đầu quy định cơ cấu xã hội, những tính chất khắt khe nghiệt ngã của nó đã mang tới sự đấu tranh quyết liệt giữa các tầng lớp trong xã hội, bên cạnh đó sự phát triển của khoa học và văn hoá Ấn độ trong thời kỳ này cũng là cơ sở cho cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng giữa chủ nghĩa duy vật vô thần chủ nghĩa hoài nghi chống lại uy thế của các tín điều tôn giáo, thế giới quan thần thánh đại diện cho tầng lớp, đẳng cấp bóc lột trong xã hội .
Thánh kinh Véda, đạo Rig-Véda với đặc điểm là những hình thức tôn giáo cổ coi trọng sự tồn tại của các bậc thần linh , sự hiện hữu của thượng đế trong cả 3 cõi nhân gian. Đi vào giải thích các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội bằng biểu tượng của các vị thần rồi dẫn đến việc giải thích căn nguyên của thế giới, bản chất của vũ trụ bằng một đấng sáng tạo. Kinh Upalisad với mục đích chính nhằm biện hộ cho các học thuyết của kinh Véda một lần nữa làm rõ hơn bản nguyên của thế giới qua cái có trước, thực thể duy nhất, tồn tại vĩnh viễn '' Tinh thần vũ trụ tối cao". Trong giai đoạn phát triển đương thời của xã hội Ấn Độ thế giới quan của kinh Véda và kinh Upanisad được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ngự trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trường phái triết học ủng hộ quan điểm, thừa nhận uy thế tối cao của nó cũng tồn tại và phát triển với vị trí "trường phái triết học chính thống" - Samkhya, Nyaya, Vaisesika, Yoga, Mimansa, Védanta cũng đều đưa ra những quan điểm luận thuyết của mình về thế giới với sự có mặt của các bậc siêu nhiên như Purusa trong Samkhya hậu kỳ hay thần Isvara người chỉ đạo sự phối hợp của các mối liên hệ, tác động tạo nên thế giới trong giáo lý của Nyaya hoặc quan điểm thượng đế tạo ra thế giới bằng thứ chất liệu vĩnh cửu ở phái Vaisesika hậu kỳ, Bràhman trong triết học Vedànta.
Tất cả đều đưa ra những quan điểm nhằm bênh vực cho giáo lý duy tâm hoang đường của đạo Bàlamôn tư tưởng đại diện cho tầng lớp , đẳng cấp trên gồm các tăng lữ, lễ sư hay vương công vua chúa. Phủ nhận khả năng nhận thức của con người trước tự nhiên và thế giới khách quan cũng không nằm ngoài mục đích đó.
Đối lập với những trường phái trên là một bộ phận các tư tưởng mang tính "tà giáo" không chính thống mà đại diện là các trường phái triết học mang tính duy vật cao như Lokayata, phật giáo hay đạo Jaina. Bằng những quan điểm của mình về thế giới như mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều được tạo nên bởi bốn yếu tố : Đất, nước, lửa, không khí; ý thức là thuộc tính cố hữu của vật chất (Lokayata) cũng như mọi vật biến đổi không ngừng không do vị thần nào sáng tạo ra (Phật giáo). Hoặc quan điểm không thừa nhận thượng đế, coi vật chất tạo bởi các nguyên tử vô cùng nhỏ bé, cách hấp dẫn, kết hợp với nhau theo nhiều dạng khác nhau tạo nên sự đa dạng của vật chất ( Jaina). Tất cả đều nhằm phủ nhận những quyền năng giả tạo của kinh Véda và Upanisad "Các kinh Véda và Upanisad chỉ là tác phẩm của bọn điên khùng, bọn hề, bọn xỏ lá và lũ quỷ ác" qua đó cũng nói lên tiếng nói phản kháng của những tầng lớp thấp hơn đối với sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế lấy tôn giáo làm chiếc gậy điều khiển xã hội. Tương tự như vậy, Trung Hoa cổ đại với sự phát triển khá sớm dù còn sơ đẳng của tri thức khoa học cả về tự nhiên và xã hội cũng như sự hình thành và mất đi của các triều đại phong kiến Ân, Chu dẫn đến sự hình thành của các cát cứ phong kiến trong thời Xuân Thu, đã là mảnh đất cho những hệ tư tưởng khác nhau cùng sinh sôi và phát triển. Những triết gia thời kỳ " Bách gia chư tử" này của Trung hoa cổ đại đều đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp mình để bênh vực cho nó cũng như phê phán, lật đổ những quan niệm, ý tưởng, trật tự xã hội đối lập khác bằng việc tranh luận, phê phán đả kích lẫn nhau. Nhưng nổi lên trên tất cả ta vẫn thấy ở đây sự đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nếu thế giới quan duy tâm, tôn giáo dưới triều đại Ân - Thương, Tây chu được chính trị hoá, nâng lên thành hình thái ý thức xã hội biện hộ cho vai trò thống trị của nhà nước chuyên chính thị tộc. Những tư tưởng " nhận dân"," hưởng dân", "trị dân " được giải thích là " Vâng mệnh trời" " thuận theo ý trời", nếu trái với "mệnh trời " là có tội đã được các giai cấp quý tộc thời này lợi dụng triệt để đề đề cao quyền uy của mình cũng như nhấn chìm mọi sự phản kháng của nhân dân. Tuy nhiên, với trình độ nhận thức và đời sống xã hội còn thấp kém thời kỳ này ta vẫn thấy nổi lên những tiếng nói phản kháng, với sự xuất hiện của những tư tưởng triết học duy vật mang tính chất phác cho rằng con người có thể tự quyết định vận mệnh cuả mình, " chỉ cần con người ra sức sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm tiền của thì có thể đề phòng được mọi thiên tai, bất trắc và bệnh tật"- Tang Văn Trọng hay " Đạo trời thì xa, đạo người thì gần.." - Tử Sản hoặc những cố gắng trong việc giải thích các hiện tượng của tự nhiên trong " Kinh Dịch" đã phần nào thể hiện được cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học, hai hệ tư tưởng từ thủa sơ khai này. Khi xã hội Trung hoa chuyển sang giai đoạn phát triển mới với việc tồn tại của các cát cứ phong kiến - Thời Xuân thu, sự biến động lớn lao của xã hội đã mang đến sự phát triển của các trao lưu triết học khác nhau và cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong hệ thống triết học Trung Hoa lại bước sang một giai đoạn mới với những đặc điểm mới. Những quan điểm duy tâm của các nhà triết học xuất thân từ những lớp quý tộc, quân tử vẫn nhằm một mục đích duy nhất là củng cố địa vị của giai cấp quý tộc và bảo vệ nhà nước của nó. Khổng Tử, Mạnh Tử và sau này là Trang Tử với tầng lớp xuất thân là quý tộc hay dòng dõi hoàng tộc triết học của họ vẫn thể hiện một nội dung chính " Mệnh trời". " Sống chết có mệnh, giầu sang do trời " - Khổng tử, hay các quan niệm chẳng có gì mà không do mệnh trời , cái tâm do trời phú, chính quyền do trời ban ra, vũ trụ vạn vật đều tồn tại trong ý thức của trời - Mạnh tử, đạo trời là tự nhiên vốn có, cái 'không ' là nguồn gốc của thế giới - Trang tử. Thêm vào đó là sự phủ định khả năng của con người trong nhận thức cũng như cải biến thiên nhiên, " Đối với dân việc gì cần làm thì cứ sai khiến người ta làm không nên giảng giải vì có giảng giải dân cũng không thể hiểu"- Khổng tử. Hay những quan điểm của Trang tử : Con người không làm gì được trước mọi biến hoá của sự vật khách quan , chỉ có thể phục tùng tuyệt đối tính chất biến hoá của thế giới vạn vật, cách phân chia hạng người của Mạnh tử : Người lao tâm và Người lao lực. Tất cả đều nhằm múc đích biện hộ cho trật tự đẳng cấp xã hội phong kiến, coi sự đối lập giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột là trật tự hợp lý, vĩnh viễn. Nói như vậy không có nghĩa trong những luận thuyết của các ông chỉ mang nặng tính duy tâm tôn giáo mà trong bản thân nó ta cũng vẫn thấy những quan điểm tiến bộ thể hiện dù manh nha những quan điểm duy vật và đâu đó sự xuất hiện của phép biện chứng sơ khai, những nội dung này sẽ được làm rõ ở phần sau.
Bên cạnh những quan niệm nghiêng về chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, vẫn nổi lên trong thời kỳ này một số những quan điểm mang đậm tính duy vật mà tác giả của nó xuất thân từ những tầng lớp " Tiểu nhân". Mặc tử với trường phái Mặc gia, đạo gia của Lão Tử...họ đã phần nào nói lên tiếng nói của những người sản xuất nhỏ(Mặc gia) cũng như phản ánh tư tưởng của người nông dân công xã dưới thời Xuân thu - Chiến Quốc ( Đạo gia). Nội dung chính trong quan điểm của họ là chống lại thuyết " Thiên mệnh" của Nho gia - mọi phúc hoạ may rủi thành bại trong cuộc sống đều do chính hành vi con người gây ra tất cả đều do sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh tuyệt nhiên không phải do mệnh trời như Nho gia quan niệm - Mặc gia. Vai trò của con người trong nhận thức thế giới cũng được các nhà triết học này khẳng định, học thuyết "Tam biểu" của Mặc tử coi trọng kinh nghiệm trong nhận thức, những chủ chương chống lại thuyết bất khả tri và học thuyết nguỵ biện của Trang tử của phái Hậu Mặc, sự khẳng định khả năng của con người có thể nhận thức được thế giới qua "Đạo và Đức", tìm ra được sự đồng nhất giữa ý thức chủ quan và tự nhiên khách quan trong quá trình nhận thức chân lý của Lão Tử rồi tiến tới phủ định xã hội có giai cấp , phủ định quan hệ trên dưới sang hèn chỉ trích bọn quan lại là kẻ trộm cướp. Tất cả là những tiếng nói bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động và cũng đã thấy được ở họ sức mạnh cải tạo xã hội.
Nếu do đặc điểm về mặt văn hoá cũng như đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á dẫn đến triết học phương Đông còn chưa phân định thật rõ giữa triết học và tôn giáo cho nên những trường phái triết học còn chưa mang tính triệt để sâu sắc thì ở phương Tây những phân định này đã rõ ràng hơn, tính logic trong suy luận cũng phát triển ở mức cao hơn do đó cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm triết học duy vật và duy tâm cũng được thể hiện quyết liệt hơn. Triết học Hy lạp cổ đại đã chứng minh rất rõ nhận đinh trên. Để đi sâu tìm hiểu cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học thời kỳ này ta không thể bỏ qua những điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Hy Lạp cổ đại . Có thể nói vào giai đoạn thế kỷ VI trước C.N. Sự phát triển nhẩy vọt về trí tuệ của nhân loại vẫn đang là một câu hỏi cho các nhà sử học hiện nay, với sự phát triển ở mức cao của nền sản xuất chiếm hữu nô lệ cộng với sự tăng cường của các quan hệ thương mại đã biến Hy lạp thành một cường quốc. Sự phát triển của nền sản xuất đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các quan hệ và tổ chức xã hội. Nếu triết học Hy lạp cổ đại phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp chính trong xã hội lúc bấy giờ : Chủ nô và Nô lệ, thì nội dung cơ bản của sự phát triển triết học ở Hy lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học, đồng thời phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai tầng lớp : Chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
Ta có thể thấy cuộc đấu tranh này ngay từ những thời điểm khai sinh của triết học Hy lạp cổ đại. Những vấn đề về bản thể luận đã được các nhà triết học thời này đề cập đến với những quan niệm khác nhau. Nếu Talet cho rằng Nước là yếu tố đầu tiên sinh ra vật chất và là bản nguyên của mọi vật trong thế giới, Anaximandrơ gọi bản cái chất ban đầu ấy bằng cái tên đầy vẻ thần bí : Aperon trong khi Anaximen lai cho rằng thế giới sinh ra từ không khí, Heraclít cho rằng Lửa sinh ra tất cả thì Pitago và trường phái của ông lại đưa ra quan niệm thế giới, vật chất được sinh ra từ những con số và ra sức bảo vệ sức mạnh của tôn giáo và thần học. Nhận thức của con người được Heraclít cho rằng bắt đầu từ cảm giác và bản chất của tinh thần ở chính thế giới vật chất thì những người thuộc liên minh Pitago tuyệt đối hoá những con số coi rằng chúng là nền tảng của ý thức, linh hồn của con người được cấu thành từ các con số và các giai đoạn sau của trường phái này những khái niệm về "thần thánh", "con cưng của thượng đế" lại được đưa ra để giải thích bản chất thế giới.
Nhưng cuộc đấu tranh gay gắt giữa phe chủ nô quý tộc chuyên chế và phe chủ nô dân chủ chỉ được thể hiện rõ qua cuộc đấu tranh trực diện giữa hai trường phái triết học đại diện cho 2 phe mà nhân vật tiêu biểu là Đemôcrít và Platôn. Trong khi Đemôcrít khẳng định thế giới vạn vật được tạo lên bởi các nguyên tử, sự kết hợp khác nhau của các nguyên tử tạo nên sự khác nhau của sự vật. Đồng thời ông phủ định sự tồn tại của các lực lượng siêu nhiên trong vũ trụ cũng như khẳng định con người có thể nhận biết được bất kỳ điều gì trên thế giới nếu họ muốn biết thì ngược lại Platôn , học trò của Xôcrat - người đã bị kết án tử hình vì chống chế độ dân chủ chủ nô, và bản thân từng bị bắt đem ra chợ nô lệ bán lại cho rằng ý niệm là cái có trước là cái nguyên mẫu và là bản chất của sự vật, mọi vật chỉ là hiện thân của ý niệm, thể xác chỉ là chỗ trú ngụ của linh hồn con người, từ đó ông phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, coi rằng chân lý chỉ được nhận thức bằng sự hồi tưởng của linh hồn bất tử. Và ông đã bác bỏ những quan niệm vô thần của Đemôcrít coi nó là nguyên nhân làm cho ".. bọn thanh niên sa vào những tư tưởng vô đạo cho rằng không có những vị thần mà luật pháp bắt họ phải thừa nhận". Sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh giành chân lý này còn được thể hiện qua Arixtốt bằng những quan điểm của mình đã phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Platôn - người thầy của mình - về việc coi các ý niệm như một dạng tồn tại độc lập và tách rời thế giới ý niệm với thế giới hiện thực. Ông cũng thẳng thắn cho rằng ý niệm của Platon không thể là công cụ nhận thức thế giới. Tất cả đều minh chứng cho một điều " chân lý là cái cao nhất mà con người cần vươn tới.
Châu Âu bước vào "đêm trường trung cổ" với sự thống trị của tôn giáo, nguyên lý tôn giáo trở thành nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ. Sự thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến thời kỳ đầu kéo lùi sự phát triển của lục địa này. Tuy nhiên chính nỗi đau này đã ấp ủ một nền văn minh mới. Triết học thời kỳ này có thể coi là tiếng nói của tôn giáo, là công cụ cho giáo hội, song trong lòng thứ triết học tôn giáo ấy vẫn chứa đựng sự đối lập mâu thuẫn thai nghén cho một sự phát triển trong tương lai. Trong giai đoạn đầu của sự thai nghén này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không thể hiện rõ ràng mà chỉ thấy trong một và quan điểm riêng lẻ của một vài nhà triết học có xu hướng duy vật mơ hồ. Cuộc đấu tranh này chỉ được thể hiện rõ hơn dưới một hình thức khác vào thời trung cổ giữa "chủ nghĩa duy thực " và " chủ nghĩa duy danh "cuộc tranh cãi giữa hai trường phái này được khoác lên một cái vỏ thần học là sự đấu tranh giữa cái chung ( duy thực)- một thực thể tinh thần nào đó có trước với triết học củat Platôn là nguồn gốc và bên kia coi cái đơn nhất , cá biệt là có thực ( duy danh ). Nếu đi sâu vào xem xét ta sẽ nhận thấy đằng sau cái vỏ thần học ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm coi tư tưởng có trước ( phái duy thực) và chủ nghĩa duy vật chưa dám lộ mình vì điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, coi cảm giác có trước tư tưởng ( Duy danh). Những đại diện của các trường phái này cũng ra sức bảo vệ quan điểm ý kiến của mình và không ít người đã hy sinh để bảo vệ cái mình cho là chân lý.
Bên cạnh Giăngxcốt Ơrigiennơ lớn tiếng chứng minh sự tồn tại của thượng đế và vai trò tối cao của nó khẳng định cái chung huyền diệu có trước, là cơ sở cho những cai cơ bản riêng lẻ, là bản nguyên của sự vật. Ta lại thấy một nhà duy danh người Pháp Pie Abơla gián tiếp phủ nhận vai trò của chúa trời bằng nguyên lý " Hiểu để mà tin " . Thái độ phê phán những đại biểu của nhà thờ và chỉ ra tính không chuẩn xác của các học thuyết thần học của ông đã khiến cho nhà thờ xếp ông vào hàng ngũ những kẻ " chống chúa trời " và những tác phẩm của ông được coi là những "cuốn sách có chất độc".
Quan niệm giới tự nhiên do trời sinh ra, đẳng cấp do trời sắp đặt chính quyền do ý trời, con người không nhận thức được tồn tại của thế giới khách quan, hay đề cao lòng tin vào ý chí, thượng đế tồn tại bất tận còn được thấy trong triết học của Tômát Đacanh hay một phần của Đun Scốt. Tuy nhiên, ta lại vẫn thấy những tiếng nói phê phán gay gắt và cay độc tính chất vô dụng của phương pháp kinh viện và tư tưởng chống giáo hoàng , khẳng định sự vật riêng lẻ coi những cái chung là vô ảo chỉ tìm thấy trong từ ngữ trong quan điểm của Rôgiê Bêcơn hay Guyôm ốccam.
Châu Âu bước vào thời kỳ phục hưng với sự nẩy sinh của chủ nghĩa tư bản trong lòng xã hội phong kiến . Nền sản xuất được tiếp thu những phát minh, cải tiến đã đem lại năng xuất lao động cao hơn. Giai cấp tư sản mới hình thành ngoài việc cần khoa học kỹ thuật để phát triển đồng thời cũng tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy tâm tôn giáo. Điều kiện lịch sử đã mang lại cho triết học một khuôn mặt mới tuy nhiên cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học vẫn mang một hình thức đặc thù : đấu tranh bênh vực khoa học phi tôn giáo, chống các học thuyết tôn giáo, đối lập giữa trí thức thực nghiệm với chủ nghĩa kinh viện và đấu tranh cho giải phóng con người. Ta thấy trong thời kỳ này những tiếng nói phủ nhận chúa trời thống trị vũ trụ, đồng nhất thượng đế với giới tự nhiên coi vật chất được sinh ra từ các phần tử nhỏ nhất (Thuyết Đơn tử) cũng như đề cao nhận thức của con người trong quan điểm của Brunô - Nhà triết học người Ý đại diện cho đỉnh cao sự phát triển tư tưởng duy vật thời kỳ này- người đã bị giáo hội xử tử. Trong triết học của Galilê ta cũng nhận thấy các quan điểm tương tự. Tất cả đều n