Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh
tế. GDP hàng năm tăng từ 6% đến 8% trong giai đoạn 2000-2010, GDP bình quân đầu
người tăng nhanh, từ 402 đô la năm 2000 lên 1168 đô la vào năm 2010. Cùng với sự phát
triển về kinh tế là những tiến bộ về xã hội và phát triển con người. Chỉ số HDI đang dần
được cải thiện, Việt Nam xếp thứ 116/182 nước trong Báo cáo phát triển con người toàn
cầu năm 2009 và xếp thứ 113/169 nước trong Báo cáo phát triển con người năm 2010.
Tuy nhiên sự cải thiện về chỉ số HDI của Việt Nam liên tục tăng nhưng có dấu hiệu ngày
càng chậm so với các quốc gia khác.
Để tìm hiểu sâu hơn vấn đề này nhóm 10 chúng em đã lựa chọn chuyên đề “Đánh
giá phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Để nâng cao chỉ số HDI
của Việt Nam, những hướng nào cần phải tập trung đẩy mạnh hơn.”
22 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2001-2010, để nâng cao chỉ số HDI của Việt Nam, những hướng nào cần phải tập trung đẩy mạnh hơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
[Type the document title]
1
Tiểu luận
Đánh giá phát triển con người của Việt Nam giai đoạn
2001-2010. Để nâng cao chỉ số HDI của Việt Nam,
những hướng nào cần phải tập trung đẩy mạnh hơn.
[Type the document title]
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh
tế. GDP hàng năm tăng từ 6% đến 8% trong giai đoạn 2000-2010, GDP bình quân đầu
người tăng nhanh, từ 402 đô la năm 2000 lên 1168 đô la vào năm 2010. Cùng với sự phát
triển về kinh tế là những tiến bộ về xã hội và phát triển con người. Chỉ số HDI đang dần
được cải thiện, Việt Nam xếp thứ 116/182 nước trong Báo cáo phát triển con người toàn
cầu năm 2009 và xếp thứ 113/169 nước trong Báo cáo phát triển con người năm 2010.
Tuy nhiên sự cải thiện về chỉ số HDI của Việt Nam liên tục tăng nhưng có dấu hiệu ngày
càng chậm so với các quốc gia khác.
Để tìm hiểu sâu hơn vấn đề này nhóm 10 chúng em đã lựa chọn chuyên đề “Đánh
giá phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Để nâng cao chỉ số HDI
của Việt Nam, những hướng nào cần phải tập trung đẩy mạnh hơn.”
Nội dung chính của bài viết bao gồm:
Phần I. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001 – 2010.
Phần II. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI (HDI)
Với nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên việc nghiên cứu chuyên đề gặp
nhiều thiếu xót và hạn chế nên nhóm em rất mong được thầy giáo hướng dẫn, chỉ bảo để
chúng em hoàn thiện hơn chuyên đề này. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.
[Type the document title]
3
I. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001 – 2010
Để đánh giá mức độ phát triển con người của một quốc gia, chúng ta sử dụng 3
thước đo chính là: chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số phát triển giới (GDI) và thước
đo quyền lực giới (GEM).
1. Chỉ số phát triển con người HDI
Chỉ số phát triển con người (HDI- Human Development Index) là một chỉ số đo lường
thống nhất các mục tiêu kinh tế xã hội cần đạt được và phản ánh toàn bộ các khía cạnh
của cuộc sống. HDI chứa đựng ba yếu tố cơ bản của phát triển con người, đó là: mức sống
(đo bằng thu nhập bình quân đầu người), y tế và chăm sóc sức khỏe (đo bằng tuổi thọ
bình quân); giáo dục (đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đến trường đúng độ tuổi).
1.1. Về mức sống
Thành tựu
Trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ vượt bậc về tăng
trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 7,25%), mức thu nhập bình quân
đầu người trong giai đoạn này đã tăng xấp xỉ 3 lần. Thành tựu duy trì được tốc độ tăng
trưởng GDP cao cũng như mức thu nhập bình quân không ngừng tăng lên này được thể
hiện chi tiết theo 2 biểu đồ dưới đây:
6.79 6.89 7.08 7.34
7.79 8.44 8.17
8.5
6.23
5.32
6.7
0
2
4
6
8
10
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Biểu đồ 1:Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001-2010 (%)
[Type the document title]
4
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong giai đoạn này nên chỉ số thu
nhập trong HDI cũng được cải thiện đáng kể. Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8 trong tốp 10
quốc gia trên thế giới có nhiều tiến bộ nhất về thu nhập trong HDI.(Bảng 1)
THỨ TỰ
CẢI THIỆN VỀ
HDI HDI PHI THU NHẬP THU NHẬP
1 Oman Oman Trung Quốc
2 Trung Quốc Nepal Botswana
3 Nepal Ả Rập Xê út Hàn Quốc
4 Indonesia Lybi Hồng Kông, TQ
5 Ả Rập Xê út Angeri Malaysia
6 CHDCND Lào Tunisia Indonesia
7 Tunisia Iran Malta
8 Hàn Quốc Ethiopia Việt Nam
9 Angeri Hàn Quốc Mauritius
10 Morocco Indonesia Ấn Độ
Bảng 1: Danh sách các nước có nhiều cải thiện trong HDI trong năm 2010
Cũng theo đó, hàng triệu người Việt Nam thoát khỏi nghèo đói về thu nhập với
tốc độ nhanh hơn hầu hết các nước khác trên thế giới đồng thời Việt Nam đã thoát khỏi
danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Tỷ lệ người nghèo dựa trên chi tiêu
cũng đã giảm đáng kể trong thời gian này từ 37,4% năm 1998 xuống 14,5% năm 2008.
Đói nghèo nông thôn giảm từ 44,9% xuống 18,7% trong đó đói nghèo thành thị giảm từ
9,5% xuống 3,3%. Mặc dù tỷ lệ đói nghèo được đánh giá thấp hơn thực tế do chuẩn nghèo
của Việt Nam khá thấp so với tiêu chuẩn quốc tế, song tốc độ giảm nghèo của Việt Nam
được coi là một thành tựu đáng kể.
Hạn chế
Tuy nhiên bản thân sự tiến bộ về tăng trưởng kinh tế chưa đủ lực để tạo nên
những bước đột phá về mặt xã hội cho con người. Những tiến bộ đáng kể về thu nhập vẫn
không đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đứng đầu về những tiến bộ trong phát
4
0
2
.1
4
1
2
.9
4
4
0
4
9
1
.9
5
5
2
.9
6
3
9
.1
7
2
5
.1
8
3
5
.9
1
,0
2
8
.3
1
,0
6
4
1
,1
7
0
0
200
400
600
800
1000
1200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Biểu đồ 2: Thu nhập bình quân đầu người thời kỳ 2001-2010 (USD)
[Type the document title]
5
triển con người. Mặt khác chính bản thân cách thức thực hiện mục tiêu tăng trưởng của
chúng ta hiện nay cũng đã làm giảm dần hiệu ứng của mô hình tăng trưởng vì con người.
Chúng ta đang đứng thứ 113/169 nước về trình độ phát triển con người, được xếp hạng
trung bình thấp, và thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á ngoại trừ Lào
và Campuchia. Đồng thời, thứ hạng về phát triển con người của Việt Nam không cao, lại
bị chi phối bởi yếu tố thu nhập là chính. Mặc dù nước ta là 1 trong 10 nước đạt thành tưu
to lớn về tặng trưởng thu nhập nhưng vẫn chỉ có một mức thu nhập bình quân đầu người ở
mức rất khiêm tốn ở đứng thứ 120/169 trên thế giới, chúng ta vẫn nằm trong tốp của
những nước nghèo nhất của khu vực Đông Á. Mức thu nhập của nước ta kém xa so với
Trung Quốc, Hàn Quốc. Vì thế điểm số về thu nhập vẫn làm giảm đáng kể giá trị trị số
HDI của Việt Nam. Nếu không kể yếu tố thu nhập thì HDI ngoài thu nhập của chúng ta
đạt 0,646 (trong khi HDI có tính đến thu nhập thì chỉ đạt 0,572)( Theo Bảng 2)
Khi nói thành tựu giảm nghèo thì tiến bộ về giảm nghèo vẫn diễn ra không đồng
đều giữa các vùng và các nhóm dân cư khác nhau. Tỷ lệ nghèo cao nhất là ở vùng trung
du và vùng núi phía Bắc và thấp nhất ở Đông Nam Bộ. Trong 2 người dân tộc thiểu số thì
có 1 người nghèo, trong khi 11 người Kinh mới có 1 người nghèo. Tỷ lệ đói nghèo của
người Kinh là 8.9% năm 2008 so với 50,3% ở người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ giảm nghèo
diễn ra nhanh hơn ở khu vực đô thị, ở nhóm người Kinh cũng như ở Đồng bằng sông
Hồng, Đông Nam Bộ. Đồng thời bất bình đằng về khu vực cũng đang tăng lên mặc dù tốc
độ tăng có chậm hơn các nước trong khu vực. Hệ số Gini về thu nhập tăng từ 0,418 năm
2002 lên 0,434 năm 2008. Khoảng cách về thu nhập giữa phân vị nghèo nhất và giàu nhất
là 8,94 lần trong năm 2008 tăng 8,1 lần so với năm 2002.
Một khía cạnh khác khi đề cập tiến bộ trong chỉ số phát triển con người chủ yếu
do tăng trưởng mang lại thì tăng trưởng về thu nhập đã có đóng góp quan trọng hơn so với
giáo dục và/hoặc tuổi thọ trong tiến bộ về chỉ số HDI. Từ năm 1992-1999, thành tựu về
chỉ số tuổi thọ đã có đóng góp lớn nhất cho những tiến bộ về HDI, nhưng giai đoạn 2001-
2010, những tiến bộ về HDI chủ yếu lại do thu nhập mang lại. Mặc dù mức tăng tuổi thọ
được dự đoán sẽ bắt đầu tăng chậm lại khi một quốc gia đạt một mức tuổi thọ cao, nhưng
đối với một số quốc gia trong khu vực, ví dụ như Hàn Quốc, tuổi thọ vẫn tăng ngay cả khi
đã ở mức rất cao. Hiện nay chính phủ Việt Nam vẫn có xu hướng ưu tiên cho đảm bảo
cho tăng trưởng kinh tế nhanh hơn là cải thiện phát triển con người xã hội, như vậy khó
có thể phát triển con người một cách bền vững được.
Xếp
hạng
HDI
Chỉ số
HDI
Tuổi thọ
bình quân
Số năm đi học
trung
bình(năm)
Số năm dự
kiến
(năm)
Tổng thu
nhập quốc
dân
Điểm số
HDI ngoài
thu nhập
Hàn Quốc 12 0.877 79.8 11.6 16.8 29,518 0.918
[Type the document title]
6
Singapo 27 0.846 80.7 8.8 14.4 48,893 0.831
Malayxia 57 0.744 74.7 9.5 12.5 13,927 0.775
Trung Quốc 89 0.663 73.5 7.5 11.4 7,258 0.707
Thái Lan 92 0.654 69.3 6.6 13.5 8,001 0.683
Việt Nam 113 0.572 74.9 5.5 10.4 2,995 0.646
Ấn Độ 119 0.519 64.4 4.4 10.3 3,337 0.549
Lào 122 0.497 65.9 4.6 9.2 2,321 0.548
Campuchia 124 0.494 62.2 5.8 9.8 1,868 0.566
Bảng 2: Chỉ số phát triển con người Việt Nam so với một số nước Châu Á năm 2010
Mức thu nhập thực của dân cư có xu hướng giảm đi cùng với quá trình tăng
trưởng kinh tế. Nếu xét sự gia tăng thực về mức thu nhập bình quân đầu người, tức là lấy
tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người trừ đi tỷ lệ lạm phát, kết quả cho thấy mức gia
tăng thu nhập bình quân đầu người có xu hướng tặng chậm dần và những năm cuối có xu
hướng giảm đi. Khi thu nhập tăng lên, với xu hướng tăng trưởng kinh tế theo số lượng
hiện tại thì có nguy cơ càng tăng trưởng, mức sống thực của người dân lại càng giảm đi.
Bảng 3: Mức tăng GDP bình quân đầu người thực
1.2. Về Y tế và chăm sóc sức khỏe
Thành tựu
Tuổi thọ trung bình ở Việt Nam trong 10 năm qua tăng từ 67,8 tuổi năm 2000
lên 73 năm 2010, vượt mục tiêu đề ra năm 2010 là 71 tuổi. Tuổi thọ trung bình của Việt
Nam cao hơn so với các nước có cùng tỷ lệ GDP bình quân đầu người.
Việt Nam đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc giảm tỷ lệ tử vong
trẻ em dưới 1 tuổi và tỷ lệ tử vong dưới 5 tuổi. Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm đáng kể
từ 44,4% năm 1990 xuống 36,7% năm 2000 và còn 15,8% năm 2010.Tỷ lệ chết trẻ em
dưới 5 tuổi giảm từ 58% năm 1990 xuống 42% năm 2000 và còn 23,8% năm 2010. Với
kết quả này Việt Nam sẽ hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ
em trước năm 2015.
Năm GDP/người (USD) Tốc độ tăng
GDP/người (%)
Tỷ lệ lạm phát(%) Tốc độ tăng
GDP/người thực (%)
2005 640
2006 725 13,3 6,6 +6,7
2007 835 15,1 12,6 +2,5
2008 1052 25,9 22,9 +3
2009 1064 1,1 6,88 -5,78
2010 1170 9,9 11,2 -1,3
[Type the document title]
7
Tỷ lệ chết mẹ giảm từ 95/100.000 ca năm 2000 xuống 80/100.000 năm 2005 và
còn 69 vào năm 2010. Nguyên nhân chính gây tử vong mẹ là những nguyên nhân trực
tiếp trong đó 5 tai biến sản khoa chiếm tỷ lệ cao. Có sự khác biệt lớn giữa tỷ lệ chết mẹ ở
vùng đồng bằng và vùng sâu, vùng xa. Giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ chết mẹ hầu như ít thay
đổi do vậy để đạt được mục tiêu thiên niên kỷ năm 2015 tỷ số chết mẹ còn 58,3/100.000,
Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để đạt được kết quả này.
Năm 2010, tổng chi y tế so với tổng thu nhập quốc nội đạt 9,14%, chi tiêu y tế
bình quân đầu người/năm là 75USD tăng gấp 3,6 lần so với năm 2000.
Dược, vắc xin, sinh phẩm, trang thiết bị và công nghệ y tế: Chi tiền thuốc chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng chi y tế. Tỷ trọng này giảm từ 41% năm 2000 đến 34% năm 2009.
Tiền thuốc bình quân đầu người tăng từ 5,4USD lên 22,3USD. Thuốc sản xuất trong nước
chiếm tỷ trọng 48% so với tổng tiền giá trị thuốc sử dụng.
Năm 2009, hệ thống khám chữa bệnh với 13.460 cơ sở Nhà nước và gần 90.000
cơ sở tư nhân. Tổng số bệnh viện trên toàn quốc là 1009 (46 bệnh viện trung ương, 348
bệnh viện tuyến tỉnh, 615 bệnh viện tuyến huyện), bệnh viện y tư nhân chiếm 9% so với
tổng số bệnh viện trên toàn quốc. Số giường bệnh trên 10.000 dân của Việt Nam là 21,5.
98,7% xã có cơ sở trạm y tế.
Nhân lực y tế: số lượng cán bộ y tế trên 10.000 dân tăng từ 29,7 năm 2000 lên
40,5 năm 2010. Hiện nay số bác sỹ/10 000 dân là 7,2; số dược sỹ/10 000 dân là 1,74
Thông tin y tế: Hệ thống thông tin y tế bao phủ toàn quốc, gắn liền với mạng
lưới cung cấp dịch vụ y tế. Thông tin được thu thập qua hệ thống báo cáo định kỳ và điều
tra. Hàng năm bộ Y tế biên soạn và công bố cuốn Niêm giám thống kê y tế công bố các số
liệu liên quan tới sức khỏe, hoạt động y tế và các chương trình mục tiêu quốc gia. Nhiều
ấn phẩm của hệ thống cũng đã được ban hành dưới nhiều hình thức như sách báo, trang
web. Ngoài số liệu thống kê còn có nhiều sản phẩm thông tin bổ ích để tăng hiểu biết của
người dân về chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh và đề cập, tăng kiến thức của các cán bộ y
tế, như Báo sức khỏe và Đời sống, Báo gia đình và xã hội, website của Bộ Y tế. Đối với
cán bộ y tế, có tạo chí Y học thực hành, Tạp chí dược học, Thông tin y dược, Y học Việt
Nam.
Ngoài ra hiện nay có 83% dân số nông thôn được tiếp cận nước sạch, tăng so
với mức trên 30% năm 2000 và 63% số hộ gia đình ở nông thôn có nhà vệ sinh đủ tiêu
chuẩn.
Hạn chế
Tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em dưới một tuổi đã giảm, hầu hết trẻ em đã được
tiêm phòng và đa số các ca sinh nở đã được các nhân viên y tế đã qua đào tạo hỗ trợ. Tuy
[Type the document title]
8
nhiên tỷ lệ trẻ em còi xương và suy dinh dưỡng các vùng nông thôn và miền núi cao hơn
gấp hai đến ba lần. Tỷ lệ tử vong của bà mẹ ở nông thôn cao gấp hai lần so với thành thị.
Năm 2008, Việt Nam dành 7,3% cho y tế hay 77 USD trên đầu người, cao hơn
Indonesia và Philippin nhưng thấp hơn Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia và Hàn Quốc.
Tuy nhiên chi tiêu công chỉ chiếm 2,8% GDP do phần lớn chi tiêu cho y tế từ khu vực tư
nhân với 61,5% trong năm 2008. Đa số chi tiêu tư nhân là chi tiêu của hộ gia đình 56%
tổng chi tiêu cho y tế. Chi tiêu cho y tế tăng 20% trong giai đoạn 2004-2008, và tăng
nhanh hơn ở khu vực thành thị và trong nhóm người Kinh. Có tổng số 8,1% hộ gia đình
dành hơn 20% tổng chi tiêu hộ gia đình cho y tế và 3,7% bị bần cùng hoa do phải chi tiêu
quá nhiều cho chăm sóc sức khỏe.
1.3. Về giáo dục
Thành tựu: Tỷ lệ biết chữ của người trên 10 tuổi tăng từ 89,5% năm 1998 lên
93,1%năm 2008. Mặt khác tỷ lệ nhập học đúng tuổi ở cấp tiểu học là 97% và trung học
cơ sở là 83% trong năm học 2008-2009. Việt Nam đã đạt gần tiếp cận phổ cập tiểu học
và trung học cơ sở, tỷ lệ người lớn biết chữ đạt gần 93% năm 2008.
Hạn chế
Có sự khác biệt giữa các vùng miền về giáo dục, có 40% trẻ em dân tộc miền
núi tiếp cận giáo dục mầm non, so với tỷ lệ 61% ở dân tộc Kinh. Ở giáo dục trung học cơ
sở tỷ lệ nhập học đúng tuổi là 59% trong nhóm ngũ phân vị nghèo nhất so với 95% trong
nhóm ngũ phân vị giàu nhất. Chưa đến 1% ngũ phân vị nghèo nhất học đại học so với
26,3% ngũ phân vị giàu nhất.
Tăng trưởng về chỉ số giáo dục dường như đã chậm lại trong thập kỷ qua, đặc
biệt trong giai đoạn 2004-2008. Đây là điều cần quan tâm do tầm quan trọng của giáo dục
trong phát triển con người và do giáo dục được khẳng định là một trong những ưu tiên
phát triển trong Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội năm 2011-2015 và Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội năm 2010-2020.
So với một số nước trong khu vực như Indonesia và Hàn Quốc với những tiến
bộ vững chắc về cả thu nhập và phi thu nhập trong chỉ số HDI, Việt Nam có sự tiến bộ
trong các khía cạnh phi thu nhập chậm hơn. Về điểm này Việt Nam cũng những nét tương
đồng với Trung Quốc, nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao nhưng có sự cải thiện
chậm hơn về chỉ số tuổi thọ và chỉ số giáo dục.
Từ năm 1999 đến năm 2008, chỉ số thu nhập tăng 29,9% trong khi chỉ số tuổi
thọ tăng 10,1% và chỉ số chỉ số giáo dục chỉ tăng có 3,4%. Nói cách khác, chỉ số thu nhập
đóng gió 55,7% vào tăng trưởng HDI trong giai đoạn 1999-2008, trong khi chỉ số tuổi thọ
trung bình đóng gió 31,8% và chỉ số giáo dục chỉ đóng góp 12,6%. Điều này cho thấy chỉ
số giáo dục thấp đang làm chậm lai tiến bộ chung về HDI của Việt Nam.
[Type the document title]
9
Chi tiêu công cho giáo dục ở Việt Nam ở mức tương đương so với đa số các
nước khác trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Phần lớn chi tiêu cho y tế và giáo dục
là từ các hộ gia đình. Mức chi tiêu này cao hơn rất nhiều so với mức 30% được coi là tối
ưu để đảm bảo công bằng xã hội và phát triển con người. Năm 2008, chi tiêu công cho
giáo dục là 5,3% GDP, chiếm 20% chi tiêu chung của Nhà nước. Tuy nhiên, kết quả giáo
dục của Việt Nam còn kém so với các nước láng giềng - cả về số năm đi học trung bình
và số năm đi học kỳ vọng. Bên cạnh đó, khoảng một nửa chi tiêu chung cho giáo dục là từ
hộ gia đình, tùy thuộc vào cấp học và tăng mạnh ở những cấp học cao hơn. Trong khi ở
cấp tiểu học, chi tiêu của hộ gia đình chiếm 17,5% tổng chi tiêu thì ở cấp đại học, con số
này tăng lên đến 52,2%. Trên thực tế chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục tăng 44% trong
giai đoạn 2004-2008. Tăng cao nhất là ở khu vực thành thị, trong nhóm ngũ phân vị giàu
nhất chi tiêu cho giáo dục nhiều gấp 5,4 lần so với các hộ trong nhóm ngũ phân vị nghèo
nhất. Chi tiêu cho giáo dục là một gánh nặng lớn đối với các hộ gia đình nghèo, đặc biệt
là ở các cấp học cao hơn, tỷ lệ học sinh bỏ học tăng nhanh.
1.4. Đánh giá chung về chỉ số HDI ở Việt Nam
Mặc dù điểm HDI của Việt Nam tăng hàng năm, song tính từ năm 2006 đến
2011, xét về thứ hạng, Việt Nam chỉ tăng có 1 bậc. Theo đó chỉ số tăng trưởng HDI giai
đoạn 1990-2011 và 2000-2011 so với giai đoạn 1980-2011 lần lượt là 1,5 và 1,06%.
Chúng ta đang đứng thứ 113/169 nước về trình độ phát triển con người, được xếp hạng
trung bình thấp, và thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á ngoại trừ Lào
và Campuchia.
Đóng góp của các chỉ số thành phần vào tăng trưởng chỉ số HDI: Bảng 4 cho
thấy đóng góp của từng chỉ số thành phần đối với những theo đổi về HDI trong giai đoạn
1992-2008. Đóng góp của chỉ số thu nhập là lớn nhất với tỷ lệ 49%, tiếp theo là chỉ số
tuổi thọ và chỉ số giáo dục. Ở giai đoạn 1999 trở về trước, chỉ số tuổi thọ có đóng góp lớn
nhất vào sự tăng lên trong chỉ số HDI với 41,8% so với 36,1% của chỉ số thu nhập, 22,1%
của chỉ số giáo dục. Từ những năm 2000-2008, chỉ số thu nhập đã đóng góp 55,7% so với
31,8% đối với chỉ số tuổi thọ và 12,6% đối với chỉ số giáo dục. Đến giai đoạn 2004-2008,
chỉ số thu nhập đóng góp 79,1% chỉ số tuổi thọ 15,2% và chỉ số giáo dục 5,1%. Điều này
cho thấy tăng trưởng thu nhập ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong tiến bộ về giá
trị HDI theo thời gian. Hiện nay chính phủ Việt Nam vẫn có xu hướng ưu tiên cho đảm
bảo cho tăng trưởng kinh tế nhanh hơn là cải thiện phát triển con người xã hội, như vậy
khó có thể phát triển con người một cách bền vững được.
[Type the document title]
10
Năm HDI Chỉ số tuổi
thọ
Đóng góp của
chỉ số tuổi thọ
vào tăng
trưởng HDI
so với thời kỳ
trước (%)
Chỉ số
giáo dục
Đóng góp của
chỉ số giáo dục
vào tăng
trưởng HDI so
với thời kỳ
trước (%)
Chỉ
số thu
nhập
Đóng góp của
chỉ số thu nhập
vào tăng
trưởng HDI so
với thời kỳ
trước (%)
1992 0,611 0,670 - 0,776 - 0,386 -
1995 0,639 0,690 18,8% 0,808 25,9% 0,420 55,3%
1999 0,651 0,721 86,1% 0,803 -13,9% 0,430 27,8%
2004 0,701 0,782 40,7% 0,826 15,3% 0,496 44,0%
2008 0,728 0,794 15,2% 0,830 5,1% 0,559 79,7%
Đóng góp của từng chỉ số vào tăng
trưởng HDI giai đoạn 1992-2008
35,2% - 15,9% - 48,9%
Bảng 4: Đóng góp của các chỉ số thành phần vào tăng trưởng chỉ số HDI
HDI ở các tỉnh của Việt Nam
Năm 2008, cao nhất là ở Bà Rịa-Vũng Tàu(0,805) và thấp nhất ở Lai Châu
(0,538). Các tỉnh thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng có chỉ số
phát triển con người tương đương với Trung Quốc, Giooc-dan-ni, Belize. Mặt khác các
tỉnh nghèo nhất của Việt Nam, như Lai Châu và Hà Giang, có mức phát triển con người
tương đương với Papua New Guinea và Swaziland.
Một số tỉnh nghèo hơn như Gia Lai và Lào Cai đã cải thiện được giá trị HDI
trong giai đoạn 1999-2008, một số trường hợp tăng được từ 20-30% nhưng xếp hạng
chung của các tỉnh này không thay đổi đáng kể. Các tỉnh giàu hơn vẫn duy trì mức xếp
hạng cao nhưng trị HDI không tăng nhiều: HDI chỉ tăng 2,4% ở thành phố Hồ Chí Minh,
5,1% ở Đà Nẵng và 6% ở Bà Rịa Vũng Tàu. HDI của Hà Nội, sau khi được tính gộp với
Hà Tây tăng là 10%.
Các tỉnh nghèo đã cải thiện được các chỉ số về thu nhập, tuổi thọ trung bình và
giáo dục do xuất phát điểm rất thấp vào năm 1999. Các tỉnh giàu hơn vốn đã có mức phát
triển con người tốt hơn vào năm 1999 vẫn tiếp tục cải thiện đáng kể về thu nhập nhưng
cải thiện chậm hơn về số tuổi thọ trung