Để có thể theo đuổi mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ, Chính phủ luôn thực thi chính
sách tài chính với hai chính sách cơ bản và quan trọng là chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa trong đó chính sách tiền tệ luôn được coi là trung tâm.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu
thông nhằm đảm bảo sự ổn định về giá trị tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
công ăn việc làm.
Các công cụ mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng để có thể quản lý, điều tiết CSTT bao
gồm: tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các
công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ. Cùng với chính sách tài khóa, chính
sách tiền tệ bằng các công cụ của mình dưới sự điều tiết của NHNN làm thay đổi lượng tiền
cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất => Đầu tư => Tăng trưởng => Lạm
phát . => Mục tiêu kỳ vọng của Chính phủ đối với nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Thời kỳ 1997 – 2010 theo quy định tại điều 1 - luật Ngân hàng Nhà nước 12/1997 quy
định và nêu rõ quan điểm, mục tiêu của CSTT : “ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm
phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã
hội.” Có thể thấy CSTT nổi bật trong thời kỳ này là CSTT đa mục tiêu.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5795 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CH21D – Nhóm 10 Page 1
Tiểu luận
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với
sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay
CH21D – Nhóm 10 Page 2
Câu I: Chính sách tiền tệ: Mục tiêu; nội dung; giải pháp hoàn thiện
***
I – Khái niệm và mục tiêu
Để có thể theo đuổi mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ, Chính phủ luôn thực thi chính
sách tài chính với hai chính sách cơ bản và quan trọng là chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa trong đó chính sách tiền tệ luôn được coi là trung tâm.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu
thông nhằm đảm bảo sự ổn định về giá trị tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
công ăn việc làm.
Các công cụ mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng để có thể quản lý, điều tiết CSTT bao
gồm: tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các
công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ. Cùng với chính sách tài khóa, chính
sách tiền tệ bằng các công cụ của mình dưới sự điều tiết của NHNN làm thay đổi lượng tiền
cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất => Đầu tư => Tăng trưởng => Lạm
phát…. => Mục tiêu kỳ vọng của Chính phủ đối với nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Thời kỳ 1997 – 2010 theo quy định tại điều 1 - luật Ngân hàng Nhà nước 12/1997 quy
định và nêu rõ quan điểm, mục tiêu của CSTT : “ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm
phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã
hội.” Có thể thấy CSTT nổi bật trong thời kỳ này là CSTT đa mục tiêu.
Cùng với mục tiêu phát triển đi đôi với ổn định kinh tế tại Nghị quyết Hội nghị TƯ 3
(khóa XI) đã xác định giai đoạn 2011 – 2015 ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Từ đó đưa ra mục tiêu cụ thể của CSTT trong giai đoạn này
là: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng
chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề
ra.” (Theo khoản 1 điều 3 Luật số 46/2010/QH12 quy định về luật Ngân hàng Nhà Nước
Việt Nam quy định). Đây là một sự đổi mới, hoàn thiện theo hướng CSTT đơn mục tiêu,
phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
CH21D – Nhóm 10 Page 3
Như vậy có thể thấy, mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền và
góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác (ổn định lạm phát; thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế…) bằng các công cụ đặc trưng dưới sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước. Từ mục
tiêu cơ bản này sẽ được cụ thể hóa thành các mục tiêu chi tiết khác: tạo công ăn việc làm,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống xã hội….sao
cho phù hợp với mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau.
II – Nội dung của Chính sách tiền tệ
CSTT bao gồm 2 nội dung chính
1 – Xây dựng hệ thống các mục tiêu của CSTT.
2 – Sử dụng các công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Sau đây nhóm xin trình bầy về nội dung cụ thể của CSTT
1 - Xây dựng hệ thống các mục tiêu của CSTT
Như đã nói tại mục I, mục tiêu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng
chỉ tiêu lạm phát. Từ mục tiêu cơ bản này sẽ cụ thể hóa thành các mục tiêu chi tiết hơn, phù
hợp với kế hoạch phát triển kinh tế trong từng thời kỳ => NHNN sẽ đưa ra chính sách tiền
tệ cụ thể cho từng giai đoạn:
- CSTT mở rộng: cung ứng thêm tiền, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất… =>
Chống suy thoái. CSTT mở rộng thường được áp dụng trong ngắn hạn, khi mà áp lực về
tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
- CSTT thắt chắt: giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá
nóng của nền kinh tế …=> Kiềm chế lạm phát. Do lạm phát cao có tác động xấu đến các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô, trong khi đó nguyên nhân lạm phát lại xuất phát từ tiền tệ. Chính vì vậy ở
nhiều nước kiềm chế lạm phát, ổn định gía cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của chính
sách tiền tệ. Và chính sách tác động hiệu quả để kiềm chế lạm phát là CSTT thắt chặt.
Không chỉ trong dài hạn, ngay cả trong ngắn hạn khi nền kinh tế phát triển quá nóng NHNN
cũng sẽ sử dụng CSTT thắt chặt.
Nói chung, tùy mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ mà NHNN sử dụng CSTT thắt chặt
hay mở rộng. Để có thể thực hiện các CSTT này, NHNN sẽ sử dụng và triển khai các công
cụ để thi hành CSTT. Đây là nội dung thứ 2 trong CSTT và sẽ được nhóm trình bày trong
mục 2 dưới đây.
2 - Sử dụng các công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Để có thể thực thi CSTT; NHNN sử dụng các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở;
Chính sách tái chiết khấu; Dự trữ bắt buộc và một số các công cụ khác.
CH21D – Nhóm 10 Page 4
2.1.1 Chính sách tái chiết khấu:
Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là LS mà
NHNN đánh vào các khoản tiền cho NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc
bất thường của các Ngân hàng này. Thông qua lãi suất Tái chiết khấu Ngân hàng Nhà nước
điều tiết dòng tiền ra của Ngân hàng TM từ đó điều tiết lượng tiền trong lưu thông => Điều
tiết cung tiền (MS) trong nền kinh tế.
+ Khi lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì NHTM sẽ tiếp tục
cho vay cho đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền
mặt họ có thể vay từ Ngân hàng Nhà nước mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào =>
NHTM giảm lượng tiền dự trữ => Số nhân tiền tăng (m) => Gia tăng cung tiền (MS).
+ Khi lãi suất tái chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, NHTM không thể để tỷ lệ dự trữ
tiền mặt của mình giảm đến mức tối thiểu thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải
vay từ Ngân hàng NN với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt
bất thường từ phía khách hàng => NHNN buộc các NHTM phải tăng lượng dự trữ tiền mặt
=> số nhân tiền tệ giảm xuống (m giảm) => Giảm cung tiền (MS giảm).
Công cụ lãi suất tái chiết khấu chỉ phát huy tác dụng khi mà các tổ chức tín dụng có
nhu cầu vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước.
Trong năm 2011 khi lạm phát tăng cao, CP đã sử dụng CSTT – công cụ lãi suất chiết
khấu và lãi suất tái cấp vốn để kiểm soát lạm phát. Cụ thể Lãi suất chiết khấu đã được tăng
từ 7%/năm lên 12%/năm trong quý I, lên mức 13%/năm trong quý II và quý III. Còn lãi suất
tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ 9%/năm trong quý I lên 15% vào quý IV. Với việc tăng
lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, các NHTM rất cẩn trọng trong việc cho vay. Từ đó làm
giảm lượng cung tiền trên thị trường => góp phần kiểm soát lạm phát.
2.2.2 Dự trữ bắt buộc
Là số tiền mà các NHTM bắt buộc phải duy trì trên một tài khoản gửi ở Ngân hàng
Nhà nước. Sự tăng lên hay giảm xuống của dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền (m)
và lãi suất cho vay của các ngân hàng TM. Từ đó tác động lên MS.
Ưu điểm: Đây là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh đến MS. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ
của dự trữ bắt buộc (R) sẽ dẫn đến thay đổi đáng kể khối lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm: Mặc dù có tác dụng mạnh trong việc tác động lên MS tuy nhiên khi sử
dụng công cụ này có một số nhược điểm như sau:
Đối với các ngân hàng có lượng dự trữ quá thấp, khi NHNN yêu cầu gia tăng lượng dự
trữ bắt buộc => các ngân hàng này không xoay xở kịp thời hoặc phải dùng những biện pháp
CH21D – Nhóm 10 Page 5
có chi phí cao để có thể huy động được đủ lượng dữ trữ bắt buộc (như tăng lãi suất huy
động tiền gửi cao hơn mặt bằng lãi suất chung…) => các NHTM có năng lực yếu kém đối
mặt với nguy cơ mất khả năng thanh khoản => tác động đến toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thêm vào đó việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các NH rơi vào
tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh khoản, làm gia tăng chi phí => ảnh hưởng tới kết
quả kinh doanh.
2.2.3 Nghiệp vụ thị trường mở
Để có thể tác động, điều tiết MS; NHNN sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ
thị trường mở là nghiệp vụ theo đó NHNN mua và bán các chứng khoán có giá (chủ yếu là
tín phiếu kho bạc) trên thị trường. Có thể nói, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT
quan trọng nhất trong số các công cụ của CSTT vì nghiệp vụ này là nhân tố làm thay đổi lãi
suất và tiền cơ sở; tác động gián tiếp thông qua lãi suất LNH và tiền cơ sở đến cung tiền và
lãi suất thị trường.
Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo chủ ý của NHNN nên NHNN
hoàn toàn kiểm soát được khối lượng chứng khoán có giá mà không chịu ảnh hưởng của bất
kỳ nhân tố nào. Đồng thời đây cũng là công cụ chính xác, linh hoạt, ít tốn kém về thời gian
và chi phí.
Nhược điểm: Việc thực hiện công cụ này một cách hiệu quả yêu cầu và đòi hỏi một thị
trường tài chính thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển. Mà đây là vấn đề khá nổi cộm của
thị trường tài chính thứ cấp và thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, vì các thị trường này
vẫn còn khá mới mẻ và chưa thực sự phát triển.
Ngoài các công cụ cơ bản trên, hiện nay NHNN còn áp dụng một số các công cụ như:
- Quản lý về lãi suất của các NHTM: Theo đó NHNN đưa ra khung lãi suất bao gồm lãi
suất cơ bản. LSCB là một công cụ để NHNN thực hiện CSTT trong ngắn hạn. Theo Luật
Ngân hàng Nhà nước, Lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho VNĐ, do NHNN công bố, làm cơ sở
cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. LSCB được xác định dựa trên cơ sở lãi
suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN; lãi suất huy
động đầu vào của các tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung – cầu vốn. Theo luật
dân sự VN năm 2005 quy định lãi suất cho vay của các Ngân hàng, TCTD không được vượt
quá 150% lãi suất cơ bản. Từ đó với việc đưa ra LSCB, NHNN sẽ kiểm soát lãi suất cho vay
trên thị trường => Từ đó góp phần điều tiết lượng MS trên thị trường.
Lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN Việt Nam hiện nay là 9%/năm. Theo đó lãi
suất cho vay tối đa của các TCTD; NHTM là 13,5%/năm.
CH21D – Nhóm 10 Page 6
- Ấn định hạn mức tín dụng: Đây là công cụ trực tiếp, mang tính hành chính của NHNN
đối với các tổ chức tín dụng. Theo đó Ấn định hạn mức tín dụng là quy định mức dư nợ tối
đa mà NHNN buộc các NHTM; TCTD phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái là công cụ, đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một
cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ,
cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá hối
đoái không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá hối đoái không làm thay đổi
lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế
đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho CSTT.
3 - Các giải pháp để hoàn thiện Nội dung của Chính sách tiền tệ
Trong quá trình vận hành và ứng dụng CSTT để đáp ứng mục tiêu của từng giai đoạn
kinh tế cụ thể, CSTT đã có rất nhiều ưu điểm và nhược điểm. Vì vậy để hoàn thiện nội dung
của CSTT, nhóm 10 đưa ra một số các giải pháp cụ thể như sau:
3.1 Giải pháp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
3.1.1 Các giải pháp chung
- Thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ cần phải được củng cố và phát triển
theo hướng cơ cấu lại hệ thống NH, minh bạch hóa các thông tin, tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh sôi động để có thể phát huy có hiệu quả ở mức tối đa của CSTT.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng, tài chính để có cơ chế thực thi
CSTT nói chung và các công cụ CSTT được minh bạch và có hiệu quả. Việc thực thi CSTT
3.1.2 Nâng cao vai trò và trách nhiệm của NHNN
- NHNN là đơn vị chủ quản cũng như điều hành vận hành CSTT vì vậy bản thân
NHNN cũng phải không ngừng nâng cao năng lực, chuyên môn để có thể có những quyết
định và vận hành CSTT một cách hiệu quả.
- Ngoài ra cần phải nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN sao cho phù hợp với
mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp với thể chế chính trị tại Việt Nam. Hiện nay
CSTT do NHNN thực hiện tuy nhiên để có thể vận hành CS có sự tham gia của rất nhiều bộ
ban ngành vì vậy CSTT còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đi vào thực tiễn. Theo đó
cần sửa đổi, bổ sung luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho
NHNN trong việc xây dựng CSTT, chủ động trong việc xắp xếp cơ cấu tổ chức nhân sự;
CH21D – Nhóm 10 Page 7
hiện đại hóa công nghệ trong việc quản lý tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo… trong
việc phục vụ điều hành CSTT. Và NHNN phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện trước
Quốc Hội hoặc Chính Phủ.
3.1.3 Việc hoạch định CSTT và các công cụ của chính sách cần đặt trong một chỉnh thể
thống nhất có sự linh hoạt của thị trường.
Để CSTT thực sự có hiệu quả cần phải đặt nó trong tổng thể với các CS kinh tế khác,
đặc biệt là chính sách tài khoá. Đây là 2 chính sách cơ bản trong CSTC, bổ sung và hỗ trợ
cho nhau.
Một ví dụ điển hình là từ năm 2006 – 2008 khi mà dòng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào
Việt Nam (năm 2006 VN thực hiện gia nhập WTO). Nếu không kiểm soát tốt dòng vốn
chảy vào này sẽ gây ra lạm phát cao. Do đó CSTT thời kỳ này là CSTT với mục tiêu cụ thể
là chống lạm phát. CP đã đưa ra các quy định trong việc kiểm soát lượng vốn chảy vào Việt
Nam: đánh thuế hoặc kỹ quỹ đối vơi dòng vốn ngắn hạn. Tất nhiên chính sách này sẽ chỉ có
hiệu lực trong một thời gian ngắn, phù hợp với tình hình nguồn vốn. Hiện nay, trong bối
cảnh nền kinh tế Việt Nam và thế giới sụt giảm thì việc điều hành CSTT trong quan hệ với
chính sách tài chính… nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế
trong nước nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát.
3.2 Giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của CSTT
Để CSTT thực sự phát huy tác dụng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, một trong
những giải pháp quan trọng đó chính là hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các công cụ
CSTT làm sao cho các công cụ này có thể hỗ trợ, phối hợp thúc đẩy lẫn nhau, tránh tình
trạng triệt tiêu hiệu quả cụ thể của nhau. Cụ thể:
- Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
Đây không phải là công cụ thường xuyên được sử dụng trong CSTT tuy nhiên NHNN
cũng luôn phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở từng giai đoạn cụ thể. Tránh để
trường hợp mức dư nợ quá lớn so với quy mô hoạt động của ngân hàng, giảm thiểu tỷ lệ nợ
xấu.
- Đối với công cụ lãi suất:
Việc điều chỉnh lãi suất (tiền vay, tiền gửi) cần phải linh hoạt, theo sát thị trường trên
nguyên tắc đảm bảo lợi ích người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền; tạo điều kiện
tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế.
CH21D – Nhóm 10 Page 8
Việc căn cứ điều chỉnh lãi suất một cách phù hợp phải căn cứ vào các nhân tố cơ bản
như: sự biến động của quan hệ cung cầu; vốn đầu tư; mức độ lạm phát; diễn biến lãi suất
trên thị trường; kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp….
- Đối với công cụ dự trữ bắt buộc:
Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc cần phải chủ động, linh hoạt theo diễn biến của thị
trường nhằm kiểm soát tiền tệ. Mặt khác tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng sử dụng vốn
khả dụng linh hoạt và hiệu quả.
Trong điều kiện kiềm chế lạm phát (sử dụng CSTT thắt chặt) như trong năm 2007 –
2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ 5% lên 10% và lên
11% là phù hợp. Tuy nhiên nếu tỷ lệ dữ trự trên tiếp tục tăng cao sẽ tạo hiệu ứng ngược, các
tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh do chủ yếu tích trữ vốn để đáp
ứng theo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNH. Thêm vào đó, khi thực hiện tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc => nên tăng từ từ để các tổ chức tín dụng có tư tưởng, kế hoạch cho việc chuẩn
bị nguồn vốn đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định. Không nên thay đổi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc quá nhanh => Gây ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các TCTD.
- Đối với nghiệp vụ trên thị trường mở:
Như tại mục 3.1 để các công cụ trên thị trường mở sự có hiệu quả thì cần phải xây
dựng một thị trường giao dịch đồng bộ về cách thức hoạt động, thống nhất về các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đặc biệt, cùng với xu thế phát triển kinh tế như hiện nay
cần mở rộng quy mô hoạt động của thị trường mở bằng cách: kết nạp thêm thành viên tham
gia trên thị trường mở; đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng
thanh khoản cho các tổ chức tín dụng; nâng cao vai trò điều tiết hướng dẫn của NHNN trên
thị trường. Tạo các điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng; thị
trường đầu thaùa tín phiếu kho bạc và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán lại giấy
tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng.
Sự phát triển của thị trường sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động
của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế.
- Đối với chính sách tỷ giá hối đoái:
Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt trên thị trường; phù hợp với lãi suất có
sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô. Một số các biện pháp như:
kiểm soát xuất nhập khẩu (tăng hoặc giảm thuế xuất nhập khẩu); khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào VN (có các chính sách ưu đãi với nhà đầu tư nước ngoài; nới lỏng luật đầu tư….);
tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; Nâng cao quỹ trữ
CH21D – Nhóm 10 Page 9
ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các
công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn
hiện nay
***
2.1 Mục tiêu của CSTT:
Từ năm 2008 - 2010 với mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế, NHNN đã thực thi CSTT
nới lỏng; cùng với các vấn đề nội tại của nền kinh tế từ trước đó là nguyên nhân chính dẫn
tới sự gia tăng lạm phát từ năm 2011. Thêm vào đó, cũng từ năm 2011, nền kinh tế thế giới
lâm vào trạng thái khủng hoảng, giá cả các mặt hàng tăng cao, sản xuất trì trệ và đình đốn.
Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng và tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Tất cả
những nguyên nhân trên đã đưa nền kinh tế Việt Nam bước vào một giai đoạn vô cùng khó
khăn và đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Như đã nêu tại câu 1, mục tiêu của CSTT là mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu
hiện bằng chỉ tiêu lạm phát vì vậy Nhóm 10 sẽ đi sâu vào diễn biến kinh tế qua các năm và
tác động của CSTT đối với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm
phát.
Theo kết quả thống kê, chỉ số lạm phát Việt Nam qua các năm như sau:
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Mục tiêu <8 <8 <10 15 7-8 <7 <10
Thực hiện 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.1 7
Nhìn vào biểu trên có thể thấy chỉ số lạm phát của Việt Nam tăng cao trong các năm
2008 và 2011. Trong năm 2008, chỉ số lạm phát đã lên đến 19,9%. Nguyên nhân là do sự
phát triển và bùng nổ kinh tế quá mức từ các năm 2006 và 2007. Đặc biệt là giai đoạn 2006
khi Việt Nam gia nhập WTO. Để có thể kiềm chế lạm phát trong năm 2008 Chính phủ đã
CH21D – Nhóm 10 Page 10
đưa ra CSTT thắt chặt kết hợp với CSTK được thể hiện qua 08 gói giải pháp nhằm hạn chế
sự gia tăng của lạm phát. Và kết quả lạm phát trong năm 2009 đã giảm xuống chỉ còn 6,5%
và tăng nhẹ lên mức 11,8% trong năm 2010. Tuy nhiên trong năm 2011 đã chứng kiến sự
tăng lên một cách nhanh chóng của lạm phát. Nguyên nhân gây n