Khi thi hành chính sách mở cửa nền kinh tế, biểu hiện rõ rệt nhất là việc tự do hóa xuất nhập khẩu hàng hóa, tuy nhiên, mỗi quốc gia, khu vực kinh tế có loại tiền tệ khác nhau và việc trao đổi hàng hóa đòi hỏi các nước có cơ chế quy đổi tiền tệ để có cơ sở định giá chung. Trên thực tế, chi phí và tiêu dùng trong nước tính bằng đồng nội tệ trong khi chi phí nhập khẩu và doanh thu xuất khẩu lại tính theo ngoại tệ nên các nước phải có chính sách định giá đồng nội tệ sao cho không chỉ ổn định tiền tệ trong nước mà còn tác động tích cực đến cán cân thương mại.
Chúng ta có thể học được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước, những quốc gia đã thành công trong việc sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái như một công cụ hữu hiệu để tài trợ xuất nhập khẩu và và giành lợi thế trong cán cân thương mại.
Tuy nhiên, với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, chính phủ, ngân hàng nhà nước (gọi tắt NHNN) đã đưa ra những chính sách quản lý tỷ giá hối đoái phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Dựa trên cơ sở lý luận cũng như những số liệu thực tế thu được trong giai đoạn 1986-2010, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài tiểu luận: “Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu” gồm 3 phần:
I - Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá
II - Thực trạng ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010
III - Đề xuất, kiến nghị
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5106 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----(((((-----
TIỂU LUẬN
Đề tài: “Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá
hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu”
Nhóm thực hiện:
SBD02: Vũ Hoàng Anh
SBD06: Trần Ngọc BảoSBD50: Vũ Thị Hoài Thương
SBD51: Vũ Thị Thùy
Lớp: CH KTTG&QHKTQT 17B
Hà Nội, 5/2011
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3
1. Tỷ giá hối đoái 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Xác định tỷ giá 3
2. Chính sách tỷ giá hối đoái 4
2.1. Khái niệm 4
2.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá 4
2.3. Tác động của tỷ giá, chính sách tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu 5
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010 9
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá 9
1.1. Chính sách tỷ giá 9
1.2. Tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu 9
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái 12
2.1. Chính sách tỷ giá. 12
2.2. Đánh giá tác động 12
3. Giai đoạn 1992 – 1999 14
3.1 Chính sách tỷ giá 14
3.2 Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu 15
4. Thời kỳ 2000-2010 17
4.1. Chính sách tỷ giá 18
4.2. Đánh giá tác động 19
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÊN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 21
1. Giải pháp mang tính vĩ mô 21
1.1 Phương pháp xác định và điều chỉnh tỷ giá 21
1.2 Xây dựng và hoàn thiện thị trường ngoại hối ở Việt Nam 21
1.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ khác 22
1.4 Một số giải pháp vĩ mô khác 22
2. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 23
2.1 Các giải pháp nghiệp vụ trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương 23
2.2 Các chiến lược tự bảo hiểm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 23
2.3 Các giải pháp trong quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh nghiệp xuất khẩu 23
2.4 Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái 24
KẾT LUẬN 25
LỜI MỞ ĐẦU
Khi thi hành chính sách mở cửa nền kinh tế, biểu hiện rõ rệt nhất là việc tự do hóa xuất nhập khẩu hàng hóa, tuy nhiên, mỗi quốc gia, khu vực kinh tế có loại tiền tệ khác nhau và việc trao đổi hàng hóa đòi hỏi các nước có cơ chế quy đổi tiền tệ để có cơ sở định giá chung. Trên thực tế, chi phí và tiêu dùng trong nước tính bằng đồng nội tệ trong khi chi phí nhập khẩu và doanh thu xuất khẩu lại tính theo ngoại tệ nên các nước phải có chính sách định giá đồng nội tệ sao cho không chỉ ổn định tiền tệ trong nước mà còn tác động tích cực đến cán cân thương mại.
Chúng ta có thể học được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước, những quốc gia đã thành công trong việc sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái như một công cụ hữu hiệu để tài trợ xuất nhập khẩu và và giành lợi thế trong cán cân thương mại.
Tuy nhiên, với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, chính phủ, ngân hàng nhà nước (gọi tắt NHNN) đã đưa ra những chính sách quản lý tỷ giá hối đoái phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Dựa trên cơ sở lý luận cũng như những số liệu thực tế thu được trong giai đoạn 1986-2010, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài tiểu luận: “Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu” gồm 3 phần:
Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá
Thực trạng ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010
Đề xuất, kiến nghị
Bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót, nhóm mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý thêm của cô giáo và các bạn.
Trân trọng cảm ơn
Nhóm thực hiện.
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm
Có nhiều cách khác nhau để hiểu vể tỷ giá hối đoái, tuy nhiên có hai cách định nghĩa chính. Nếu hiểu theo nghĩa cơ bản thì “Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau” tuy nhiên hiểu theo nghĩa thị trường thì “Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia.” Hay nói một cách khác thì tỷ giá hối đoái giữa hai loại tiền tệ là sự định giá đồng tiền này theo đồng tiền khác. Ví dụ: khi ngân hàng niêm yết: tỷ giá đồng Việt Nam là 20.000VND/USD có nghĩa là 1 USD trị giá bằng 20.000VND.
1.2. Xác định tỷ giá
Việc xác định tỷ giá hối đoái phải dựa trên cơ sở cung cầu hay trên thị trường ngoại hối cụ thể cầu về ngoại tệ chính là cung về đồng nội tệ và cung về ngoại tệ là cầu nội tệ. Ta sẽ xét cầu và cung về USD và tỷ giá của USD tính theo số VND.
Cung về USD bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế tạo ra thu nhập về USD bao gồm ngoại tệ thu được từ hàng xuất khẩu, kiều hối người Việt Nam từ nước ngoài gửi về, các nguồn đầu tư từ nước ngoài… Trong khi đó, cầu về ngoại tệ xuất phát từ nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, các khoản đầu tư ra nước ngoài…
Hình 01: Mố hình xác định tỷ giá hối đoái
Khi không có sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái được xác định bởi sự cân bằng giữa cung và cầu về đô la phát sinh từ các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của cán cân thanh toán quốc tế, chính là điểm E0 ở đồ thị trên. Đó chính là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Khi NHNN can thiệp bằng cách thay đổi dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá ở một mức nhất định đã được công bố trước, ta có chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Muốn cố định tỷ giá hối đoái thấp hơn mức cân bằng thị trường (điểm E1) thì NHNN phải dùng dự trữ ngoại tệ để bán ra thị trường, điều này làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHNN và tăng cung ngoại tệ trong nền kinh tế.
2. Chính sách tỷ giá hối đoái
2.1. Khái niệm
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc, công cụ biện pháp được nhà nước vận dụng để điều chỉnh tỷ giá trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã định trong chiến lược phát triểtn của quốc gia đó.
Với các quản lý tỷ giá hối đoái, chính phủ các nước trước hết nhằm mục tiêu ổn định tỷ giá trong phạm vi một biên độ giao động nhất định nhằm góp phần ổn định thương mại, đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế: chủ động với sự di chuyển của các luồng vốn. Thêm vào đó, với việc quản lý tỷ giá hối đoái cũng nhằm góp phần vào thực hiện các chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đảm bảo sự ổn định dự trữ quốc gia để thực hiện các nghĩa vụ tài chính quốc tế.
2.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá
Để quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái ở mức có lợi nhất cho nền kinh tế, chính phủ và ngân hàng nhà nước sử dụng một số công cụ. Có thể chia các công cụ này thành các nhóm:
2.2.1. Các công cụ trực tiếp
NHNN thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này của NHNN thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHNN tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của NHNN làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHNN mua bán có chứng từ có giá. Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
2.2.2. Các công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất trong nhóm các biện pháp gián tiếp can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Ngoài ra NHNN có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với ngân hàng thương mại (gọi tắt là NHTM), quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
2.3. Tác động của tỷ giá, chính sách tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá hối đoái là một loại giá, giống như tất cả các loại giá cả khác, cơ chế tác động của tỷ giá đối với xuất nhập khẩu được thực hiện thông qua sự tương tác của mối quan hệ cung - cầu về hàng hóa - dịch vụ xuất nhập khẩu với tỷ giá trên thị trường. Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả hàng hoá - dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi theo hướng làm giảm sức mua của đồng nội tệ (giá trị của đồng nội tệ giảm), thì giá cả hàng hoá - dịch vụ của nước đó sẽ tương đối rẻ hơn so với hàng hoá - dịch vụ của nước ngoài ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hàng hoá - dịch vụ nước đó có khả năng cạnh tranh tốt hơn dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ của nước đó sẽ tăng, cầu về nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và cán cân thương mại dịch chuyển về phía thặng dư.
Kết quả sẽ ngược lại khi tỷ giá hối đoái biến đổi theo hướng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác dụng làm tăng giá tương đối hàng hoá - dịch vụ của một nước so với nước ngoài sẽ dẫn đến làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu và cán cân thương mại chuyển dịch về phía thâm hụt.
Người ta thường thấy cán cân thương mại của một nước xấu đi ngay sau khi có sự giảm giá của một đồng tiền và chỉ bắt đầu được cải thiện sau đó một vài tháng hoặc một năm. Người ta cũng thấy nhiều khi lại xảy ra hiện tượng có sự thay đổi rất mạnh trong tỷ giá hối đoái nhưng chỉ có những sự thay đổi rất ít trong cán cân thương mại. Những thực tế này được các nhà kinh tế khái quát trong lý thuyết kinh tế học quốc tế là đường cong ''J'' hay còn được hiểu là hiện tượng ''tính giảm và tính trễ'' trong tác động của tỷ giá hối đoái đến những thay đổi của cán cân thương mại một nước. Đồ thị đường cong J biểu hiện tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại của một nước là sự mô tả đơn giản nhưng có tính thuyết phục cao đối với đặc điểm này.
Hình02: Đồ thị hiệu ứng đường cong J
Cán cân thương mại.
Khảo sát thực tiễn các nước, tính trễ và tính giảm trong tác động của tỷ giá hối đoái Trung Quốc, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06%
Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì. So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc
Một kinh nghiệm khác về chính sách điều chỉnh tỷ giá của Thái Lan. Trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, chính sách tỷ giá hối đoái cố định đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
Từ cuối năm 1998 – 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn.
Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Thái Lan, có thể nhận thấy, để sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái thành công, các nước đã sử dụng đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong cải cách, duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế, lựa chọn thời điểm hợp lý để phá giá đồng nội tệ trên cơ sở không neo giữ đồng nội tệ với ngoại tệ mạnh và giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là XHCN) trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương.
1.1. Chính sách tỷ giá
Tỷ giá được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN. Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND là 1CNY=1470VND. Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY ( 1 SUR = 735 VND.Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn tại song song nhiều loại tỷ giá. Do nhà nước ấn định một mức tỷ giá cố định trong khi các giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng nên khi hàng xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm tính theo tỷ giá cố định và hàng đổi lại nhập khẩu từ nước ngoài vào cuối năm trong khi đồng ngoại tệ lại có sự biến đổi (tăng giảm giá trị ngoại tệ và chi phí sản xuất) nên để phù hợp với hợp đồng trao đổi hàng hóa, tỷ giá trong giao dịch nhập khẩu này được điều chỉnh cho phù hợp và khác với tỷ giá do nhà nước ấn định. Ngoài ra, với chính sách ưu tiê xuất khẩu và nhập khẩu một số ngành hàng nên tỷ giá khi tính giá trị xuất/nhập các mặt hàng này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với chính sách ưu tiên.
1.2. Tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển, chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam còn yếu, vị thế trên thị trường chưa có nên Việt Nam không có lợi thế trong việc đàm phán mức tỷ giá có lợi cho mình nên đồng VND luôn được định giá quá cao
Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất. Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.
Trước tình hình đó, tỷ giá cũng được bước đầu điều chỉnh mặc dù chỉ số giá cả hằng năm biến động rất lớn. Tuy nhiên , trong những năm 1988,1989 xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu . Vì vậy, khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động mạnh đến mức giá trong nước .
Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ ) ra quyết định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều chỉnh tỷ giá phù hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi 10% đến 30% cá biệt đến 50%. Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Bảng 01: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1989
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu