Tiểu luận Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

nhược điểm trong dịch vụ cơ bản của thành phố. Hệ thống giáo dục cũ kỹ và đông đúc. Lực lượng cảnh sát thiếu thốn và không được trả lương đầy đủ, khu công viên vui chơi thì không đủ để đáp ứng. Những con đường và khu đất trống thì dơ bẩn, và nhân viên vệ sinh thì không được trang bị đầy đủ và cần thêm người. Hệ thống giao thông thì đông đúc, độc hại, và dơ “Cuộc thảo luận về sự thiếu thốn hàng hóa công với sự gia tăng phong phú trong hàng hóa tư nhân.”J. K. Galbraith (1958), p. 253 Những tranh luận về thành quả của thuyết cân bằng xã hội của John Kenneth Galbraith trong những cuối thập niên 1950 và đầu 1960, giới kinh tế học đã bỏ qua sự cảnh báo từ Galbraith về hiểm họa từ sự sao lãng trong cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, David Aschauer đã khơi gợi sự quan tâm về hiệu quả của chi đầu tư công bằng việc chỉ ra những chi tiêu tăng thêm của chính phủ cho những hàng hóa phi quốc phòng có tác động tích cực vào năng suất khu vực tư, tiếp theo sản lượng. Mặc dù, các nhà kinh tế không bị ngạc nhiên về sự tác động của chi tiêu vào cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng sản lượng khu vực tư, mức độ ảnh hưởng theo nhận định của Aschauer gây sửng sốt đến hầu hết. Aschauer ước lượng khoản chi tiêu công tăng thêm làm gia tăng thêm sản lượng của công ty tư nhân nhiều hơn 1 ½ lần so với khoản tiền tương đương góp trong công ty cổ phần.

pdf19 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2610 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đ tài 4 Nhóm 6 Tiểu luận ĐẦU TƯ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Trang 1 Đ tài 4 Nhóm 6 Những năm sau chiến tranh thế giới thứ 2, những bài báo đều nói về sự thiếu thốn và nhược điểm trong dịch vụ cơ bản của thành phố. Hệ thống giáo dục cũ kỹ và đông đúc. Lực lượng cảnh sát thiếu thốn và không được trả lương đầy đủ, khu công viên vui chơi thì không đủ để đáp ứng. Những con đường và khu đất trống thì dơ bẩn, và nhân viên vệ sinh thì không được trang bị đầy đủ và cần thêm người. Hệ thống giao thông thì đông đúc, độc hại, và dơ… “Cuộc thảo luận về sự thiếu thốn hàng hóa công với sự gia tăng phong phú trong hàng hóa tư nhân.”J. K. Galbraith (1958), p. 253 Những tranh luận về thành quả của thuyết cân bằng xã hội của John Kenneth Galbraith trong những cuối thập niên 1950 và đầu 1960, giới kinh tế học đã bỏ qua sự cảnh báo từ Galbraith về hiểm họa từ sự sao lãng trong cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, David Aschauer đã khơi gợi sự quan tâm về hiệu quả của chi đầu tư công bằng việc chỉ ra những chi tiêu tăng thêm của chính phủ cho những hàng hóa phi quốc phòng có tác động tích cực vào năng suất khu vực tư, tiếp theo sản lượng. Mặc dù, các nhà kinh tế không bị ngạc nhiên về sự tác động của chi tiêu vào cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng sản lượng khu vực tư, mức độ ảnh hưởng theo nhận định của Aschauer gây sửng sốt đến hầu hết. Aschauer ước lượng khoản chi tiêu công tăng thêm làm gia tăng thêm sản lượng của công ty tư nhân nhiều hơn 1 ½ lần so với khoản tiền tương đương góp trong công ty cổ phần. Ủy ban ngân sách quốc hội (CBO) nghiên cứu tác động của chi tiêu vào cơ sở hạ tầng và kết luận rằng kết quả nghiên cứu của Aschauer có những hoài nghi vì “kết quả thống kê không bền vững và thiếu những bằng chứng thuyết phục”. CBO quan sát các nghiên cứu thực nghiệm, bao gồm cả nghiên cứu lợi ích – chi phí (cost-benefit studies), cho rằng sản lượng khu vực tư phản ứng nhanh đối với việc đầu tư từ nguồn vốn tư hơn là nguồn vốn công. Có những nghiên cứu chống lại Aschauer. Một vài nghiên cứu khác Trang 2 Đ tài 4 Nhóm 6 cho rằng tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế thì có tác động nhỏ hơn là Aschauer. Alicia Munnell đến từ ngân hàng dự trữ liên bang Boston, đã dùng một phương pháp thống kê khác để đo lường hiệu suất của khoản chi tiêu chính phủ. Mặc dù, Munnell cũng dùng phương pháp tiếp cận từ hàm sản xuất (production function approach) để định lượng ảnh hưởng của chi đầu tư cơ sở hạ tầng, bà tiếp cận vấn đề bằng ước lượng hàm sản xuất từ dữ liệu tại một thời điểm toàn liên bang (crosssectional state-by-state data) Munnel (1990) dùng ước tính tổng sản phẩm của các bang và của khu vực tư nhân đưa vào vốn để ước tính tổng lượng vốn công cho 48 bang trong giai đoạn 1970-86. Bà dùng dữ liệu liên bang để ước lượng hàm sản xuất, kết luận rằng “bằng chứng ấy rất thuyết phục, vốn công có tác động tích cực đối với sản lương khu vực tư, đầu tư và việc làm”. Những ước tính của Munnell về tác động có liên quan của đầu tư công thì nhỏ hơn so với Aschauer. Hulten(1990) bình luận về những phát hiện của Munnell , nhận xét những phát hiện đó phù hợp với những nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu bang để phân tích, nhưng những phát hiện này có sự khác biệt rõ rệt về kết quả so với những nghiên cứu vào cùng thời gian đó (khoảng thời gian nghiên cứu). CBO (1991), tóm tắt kết quả của các nghiên cứu lợi ích – chi phí, nhận thấy có ít sự hỗ trợ cho quan điểm rằng sự gia tăng toàn diện vốn công (public capital programs) có tác động rõ rệt với sản lượng kinh tế. Thay vào đó, họ kết luận “ phân tích lợi ích – chi phí vẽ hình ảnh nhất quán tác động giữa duy trì cơ sở hạ tầng hiện tại với mở rộng năng lực cho đường cao tốc tắc nghẽn, giao thông đường băng, kiểm soát không lưu tại các sân bay lớn. Thực vậy, có vẻ rõ ràng với cách tiếp cận là chi đầu tư chính phủ không chỉ chi đầu tư vào cơ sở vật chất để kích thích tăng trưởng kinh tế. Thay vào đó, bất kỳ dự án nào giữ vững thành quả của nó và chống lại những phân tích lợi ích – chi phí. Tuy nhiên, vẫn có sự quan tâm đến loại chi tiêu đầu tư công có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Loại Trang 3 Đ tài 4 Nhóm 6 nào quan trọng được tách ra, các dự án đề xuất thuộc loại đó nên được ưu tiên trong việc thiết lập mục tiêu ngân sách chính phủ. Loại chi tiêu cơ sở hạ tầng chính phủ đánh giá bởi Aschauer và Munnell và được xem xét bởi CBO đưa vào danh mục đầu tư vốn vật chất, nhưng chính phủ cũng đầu tư vào con người. Tiếp theo là loại đầu tư đem lại vốn con người vì nó cải thiện kỹ năng làm việc của họ. Bài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế do khoản đầu tư chính phủ vào vốn vật chất và vốn con người, được chú ý nhiều hơn là sự tác động trở lại của đầu tư vào vốn con người. Aschauer, Munnell và những người khác đã dùng phương pháp hàm sản xuất tổng thể để định lượng tác động của chi tiêu chính phủ. Tuy có phương pháp khác cũng làm tốt trong việc định giá tác động của chi tiêu chính phủ với vốn vật chất nhưng nó thì không thích hợp với vốn con người. Đầu tư vào nguồn lực con người gây ảnh hưởng đến khả năng sản xuất tổng thể, ảnh hưởng này thì phức tạp hơn so với đầu tư vào vốn vật chất. Giả định rằng trong hàm sản xuất tổng thể, khoản đầu tư của Chính phủ vào vốn vật chất thì cân đối, hoặc ít nhất là giống với khoản đầu tư vào vốn vật chất của khu vực tư nhân. Vai trò của chi tiêu chính phủ vào vốn con người trong hàm sản xuất tổng thể thật khó phân loại, ưu tiên. Thật may mắn, các kỹ thuật thống kê có giá trị trong việc đánh giá tác động của chi tiêu chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế (xem Cullison 1993). Phương pháp ước lượng dùng cho bài viết này là kiểm định Granger-causality và mô phỏng từ mô hình Var. Ưu điểm của kỹ thuật này là chỉ đòi hỏi dữ liệu là vốn đầu tư thời kỳ hơn là dữ liệu vốn đầu tư thời điểm. Dữ liệu đầu tư thời kỳ thì tương thích với mẫu từng phần, vì thế thuận tiện cho nghiên cứu định giá tác động của chi tiêu chính phủ thong qua các thành phần. Kiểm định Granger được dùng để quyết định loại chi tiêu nào có tương quan với tăng trưởng kinh tế. Mô hình Var được Ireland và Otrok (1992) dùng để kiểm định tác động đối với tăng trưởng kinh tế khi cắt giảm chi tiêu quốc phòng 20% trong 6 năm. Điểm thu hút của mô hình này là không dựa trên lý thuyết, không áp đặt cấu trúc cho dữ liệu. Kết Trang 4 Đ tài 4 Nhóm 6 quả là, không cần thiết để biết chính xác làm thế nào để xác định khoản đầu tư của chính phủ vào vốn con người trong hàm sản xuất tổng thể. Trang 5 Đ tài 4 Nhóm 6 1. SỐ LIỆU VỀ CHI TIÊU CHÍNH PHỦ THEO TỪNG KHOẢN MỤC Bộ Thương mại công bố số liệu hàng năm về tổng mức chi tiêu của chính phủ theo từng khoản mục. các khoản mục gồm( 1) các khoản chi hành pháp Trung Ương, cơ quan lập pháp, và các hoạt động tư pháp khác (2) các vấn đề quan hệ quốc tế (3) chi cho khoa học vũ trụ (4) chi quốc phòng (5) chi an ninh (6) giáo dục (7) y tế (8) hỗ trợ thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi (9) chi dịch vụ và chế độ trợ cấp người hưởng chế độ chính sách (10) nhà ở và các hoạt động cộng đồng (11) hoạt động giải trí và văn hóa (12) năng lượng (13) nông nghiệp (14) nguồn tài nguyên thiên nhiên (15) giao thông vận tải (16) dịch vụ bưu chính (17) phát triển kinh tế, quy định, và dịch vụ (18) đào tạo lao động và dịch vụ (19) hoạt động thương mại (20) lãi ròng thanh toán (21) các khoản chi khác. Khi đầu tư công hiểu theo một cách rộng hơn, nó bao gồm cả vốn con người và vốn vật chất thì một vài khoản mục trong 21 khoản mục ở trên có thể được phân vào đầu tư công. Những ví dụ thảo luận dưới đây, bao gồm các khoản mục chi tiêu của chính phủ đối với khoa học vũ trụ, quốc phòng, an ninh, y tế, hỗ trợ thu nhập, trợ cấp cho người hưởng chế độ chính sách, nhà ở, nông nghiệp, giao thông vận tải, phát triển kinh tế, đào tạo lao động, và các hoạt động thương mại. Khi chính phủ chi tiêu cho khoa học vũ trụ và quốc phòng có khả năng dẫn tới sự cải tiến/đổi mới hữu ích cho sản xuất tư nhân. Ngoài ra, khi chính phủ chi tiêu nhiều cho khoa học vũ trụ và quốc phòng cũng làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân phát triển thông qua các hợp đồng ký kết trong lĩnh vực này. Chính phủ chi tiêu cho an ninh sẽ tạo nên môi trường mà ở đó nền kinh tế tư nhân sẽ hoạt động hiệu quả, an toàn. Chính phủ chi tiêu cho giáo dục giúp tăng cường nguồn lực trực tiếp. Một người ít nhất cũng phải có khả năng đọc, viết, và tính toán để có được những công việc lao động chân tay trong thị trường việc làm hiện nay. Học vấn cao hơn là điều kiện cần thiết để có những công việc tốt hơn. Chính phủ chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe và bệnh viện cũng là cách để nâng cao nguồn nhân lực bằng cách chữa bệnh và điều trị những chấn thương, những thứ làm giảm Trang 6 Đ tài 4 Nhóm 6 năng suất của các cá nhân trong lực lượng lao động. Các chương trình hỗ trợ thu nhập, như hỗ trợ cho các gia đình có thể giúp gia đình vượt qua khó khăn và con em họ có thể trở thành lực lượng lao động của xã hội. Trợ cấp cho các cựu chiến binh có thể giúp họ tái tham gia vào lực lượng lao động bằng cách cải thiện khả năng thể chất và tinh thần của họ. Chi phí nhà ở, bằng cách cung cấp nhà ở cho người có thu nhập thấp không có khả năng chi trả, cũng có thể tăng cường nhân lực khiến cho họ cảm thấy yên tâm về cuộc sống khiến chất lượng lao động càng ngày càng tốt hơn Việc chi tiêu cho nông nghiệp của chính phủ diễn ra trong nhiều thập kỉ bằng việc đầu tư nghiên cứu phát triển cho Nông Nghiệp thông qua hệ thống các trường đại học nghiên cứu về đất đai được thành lập bởi chính phủ Mỹ (ngày nay các trường này trở nên phổ biến với nhiều ngành nghề được đào tạo) và các hệ thống khác của Sở nông nghiệp. Những thành quả từ việc nghiên cứu này được công bố và triển khai ứng dụng trên cả nước thông qua hệ thống khuyến nông. Việc chính phủ chi tiêu cho giao thông vận tải giúp tăng năng suất cho kinh tế tư nhân bằng cách xây dựng đường giao thông và các phương tiện khác để đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến tay người mua. Chương trình phát triển kinh tế có thể mang lại công nghệ hiện đại cho các khu vực kém phát triển của Mỹ, theo đó giúp việc tái phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý. Chương trình đào tạo lao động có thể tăng cường nguồn nhân lực bằng cách cải thiện các kĩ năng làm việc của những người tham gia chương trình đào tạo. Các hoạt động thương mại của chính phủ làm tăng GDP và tạo ra kinh nghiệm việc làm cho lực lượng lao động. Từ việc cho rằng có rất nhiều cách mà chi tiêu của chính phủ ảnh hưởng đến nền kinh tế tư nhân, bài nghiên cứu này sẽ bắt đầu bằng việc đánh giá tất cà 21 khoản mục được đề cập ở trên để xác định những khoản mục nào thực sự có tác động và có thể quan sát được bằng thực nghiệm. Bằng trực giác, có vẻ là giáo dục, khoa học vũ trụ, quốc phòng, an ninh, giao thông vận tải, nông nghiệp và đào tạo lao động sẽ có tác động rõ rệt đối với sự tăng trưởng của kinh tế tư nhân. Như là một bước sơ bộ, phiên bản đơn giản của mô hình Granger- Trang 7 Đ tài 4 Nhóm 6 causality test được sử dụng để xác định những hạng mục chi tiêu nào của chính phủ ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 2. Kiểm định Granger: Kiểm định Granger nhằm kiểm tra xem liệu các biến giải thích được đưa vào có mối quan hệ giữa một (hay nhiều)với biến khác và độ trễ của chúng. Chẳng hạn, nếu Zt là biến phụ thuộc và Zt-1 là biến độ trễ 1 giai đoạn, thì Zt = f(Zt- 1 , vt) sẽ đại diện cho một mối quan hệ thống kê giữa 2 biến, trong đó Vt là một biến ngoại sinh trong hàm số thể hiện mối quan hệ giữa chúng. Trong kiểm định Granger, 1 biến chắc chắn sẽ được đưa vào trong hàm số thể hiện mối quan hệ của Zt và Zt-1 với những giá trị trễ giúp ích cho việc cắt giảm vt. Các kiểm định Granger và mô phỏng VAR được trình bày trong nghiên cứu này thì nhất quán trong việc chỉ sử dụng một giá trị trễ của các biến có liên quan. Các kiểm định được giới hạn trong một độ trễ giá trị bởi vì việc thu thập dữ liệu hàng năm trong một thời gian ngắn đã giảm đi bậc tự do. Việc các bậc tự do giảm đặc biệt tác động quan trọng trong các phân tích VAR. Bảng 1 trình bày kết quả của kiểm định Granger “ chạy” trên mỗi biến của nhóm biến chi tiêu của chính phủ. Phương trình được sử dụng cho kiểm định này là: Trong đó, Y: Tổng sản phẩm quốc nội của 1 quốc gia, X là biến chi tiêu của chính phủ được sử dụng kiểm định và a, b là hệ số ước lượng1. ∆ và logarit: đại d iện cho sai phân bậc 1 của biến trễ dạng logarit tự nhiên , t: thời gian. Tất cả các biến được tính theo giá năm 1987. Như trong bảng, khi X là Tổng chi tiêu của chính phủ, thống kê t cho thấy hệ số hồi quy là 0.24, nó không đạt mức ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, chi cho giáo dục và chi cho đào tạo lao động, cả 2 giúp nâng cao nguồn lực con người, là thống kê có ý nghĩa ở 1 Mọi ước lượng trong bài viết này sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất Trang 8 Đ tài 4 Nhóm 6 mức nghĩa 5%. Các khoản chi cho trợ cấp, nông nghiệp, an ninh, lãi ròng phải trả ( mang dấu âm ) thì có ý nghĩa ở mức 15%2. Bảng 1: Kết quả kiểm định Granger, Chi tiêu chính phủ (1955-1992) Phương trình: Trong đó, Y = Tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia theo giá năm 1987. X = Các biến chi tiêu của chính phủ, đo lường theo giá năm 1987 ∆ = phương trình sai phân cấp 1 . 2 Chi tiêu cho giao thông vận tải theo thống kê đánh giá là không có ý nghĩa thống kê, dựa trên kiểm định nhân quả Granger. Kết quả này khá ngạc nhiên vì phân tích Finn về vấn đề này trong Economic Quarterly cho thấy vốn đầu tư cho đường cao tốc có ý nghĩa đáng kể rằng, nếu không chính xác, sẽ ảnh hưởng đến năng suất. T uy nhiên, phân tích Finn theo hướng tiếp cận các cổ phiếu v ề đầu tư đường cao tốc, trong khi bài viết này phân tích dòng chi tiêu cho giao thông vận tải của chính phủ. Các bài viết Finn cũng sử dụng các ph ương pháp thống kê khá khác nhau. Ngoài ra, các loại chi tiêu cho giao thông vận tải được sử dụng trong bài viết này bao gồm chi phí cho không khí, đường sắt, nước và vận chuyển cũng như đường cao tốc. Tuy nhiên, để tôn trọng kết quả của Finn, chi phí vận chuyển cũng được kiểm tra với các mô hình VAR, được giải thích dưới đây. Trong khi thống kê F cho giao thông vận tải với một độ trễ chỉ ra rằng giao thông vận tải đã có một tác động đáng kể trên GDP thực cá nhân, độ tin cậy 95% cho kết quả của hàm d ao động quang mức 0, cho thấy không có định hướng rõ ràng của sự thay đổi trong mức độ thực tin của GDP. Trang 9 Đ tài 4 Nhóm 6 X Equals b2 t Value Correcte s R2 Tổng chi tiêu của chính phủ 0.037 0.240 0.00 Nông nghiệp 0.030 1.870 0.05 An ninh 0.295 1.640 0.03 Hoạt động ngoại thương 0.002 1.250 0.00 Phát triển kinh tế 0.028 0.850 0.00 Giáo dục 0.269 2.330 0.10 Năng lượng -0.011 -0.350 0.00 Điều hành lập pháp, tư pháp 0.030 0.260 0.00 Sức khỏe,y tế -0.050 -0.540 0.00 Nhà ở 0.007 0.179 0.00 Trợ cấp thu nhập 0.151 1.710 0.04 Đào tạo lao động 0.080 2.740 0.14 Ngoại giao 0.004 0.100 0.00 Quốc phòng -0.039 -0.600 0.00 Tài nguyên thiên nhiên 0.018 0.360 0.00 Lãi ròng phải trả -0.120 -1.690 0.04 Bưu chính, viễn thông 0.003 0.280 0.00 Văn hóa, giải trí -0.007 -0.121 0.00 Khoảng cách * 0.020 1.120 0.06 Vận tải 0.080 0.745 0.00 Phúc lợi 0.094 0.950 0.00 Khác 0.082 1.280 0.00 *: Ảnh hưởng của khoảng chi tiêu được ước lượng giai đoạn 1961-92 bởi khoảng chi tiêu bằng 0 trong giai đoạn 1966-60 Đáng ngạc nhiên rằng, cả chi tiêu của chính phủ cho quốc phòng và nghiên cứu vũ trụ không đạt mức ý nghĩa thống kê, không tác động đến yếu tố tăng trưởng kinh tế tư nhân thực. Trong trường hợp nghiên cứu vũ trụ, kết quả có thể đã bị ảnh hưởng bởi khoảng thời gian ngắn hơn của dữ liệu có sẵn (1961-92)3. Các kết quả của các bài kiểm định thể hiện trong Bảng 1 dẫn đến kết luận rằng các loại chi tiêu của chính phủ có ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế là giáo dục và đạo tạo lao động. Như vậy, việc phân tích cho thấy cách hiệu quả nhất để tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng tăng chi tiêu chính phủ sẽ là tăng chi cho giáo dục đã được xem xét kỹ hay các dự án đào tạo lao động, đồng thời không bỏ qua các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, an ninh và trợ cấp thu nhập. Các chính sách được thiết kế để giảm các khoản lãi phải trả. Tuy nhiên, việc phân tích chỉ cho ít thông tin về hiệu quả tương đối 3 Khi chi tiêu cho nghiên cứu vũ trụ được kết hợp với dữ liệu chi tiêu khác của chính phủ và tổng các kết quả được đánh giá theo kiểm định Granger, việc bổ sung các chi tiêu nghiên cứu vũ t rụ thường cải thiện k ết quả thống k ê. Nhưng điều xảy ra với chi tiêu cho quốc phòng ngược lại, bổ sung yếu tố này vào thì làm cho kết quả mức ý nghĩa thống kê bị giàm đi 4 Bởi vì mô hình Ireland-Otrok bao gồm biến nợ liên bang, trả lãi ròng sẽ không được đánh giá độc lập Trang 10 Đ tài 4 Nhóm 6 của các loại chi tiêu chính phủ khác nhau. Vì vậy, việc chuyển từ mô hình VAR đề cập trước đó sang các mô phỏng là cần thiết. 3. Mô phỏng từ mô hình VAR: Mô hình VAR Ireland-Otrok có thể điều chỉnh để kiểm tra ảnh hưởng của nhiều loại chi tiêu của chính phủ trên tăng trưởng kinh tế. Từ khi phân tích trong Phần 2, cung cấp bằng chứng chi tiêu của chính phủ cho giáo dục và đào tạo lao động theo thống kê có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tư nhân, phân tích sau sẽ kiểm tra các biến số còn lại . Ngoài ra để hoàn chỉnh, những tác động về mặt kinh tế của chi tiêu nông nghiệp, an ninh dân sự, và trợ cấp thất nghiệp cũng sẽ được xem xét4. Mô hình VAR sau là được ước lượng trên giai đoạn 1953-91. Mà RDEF là tốc độ tăng trưởng của ngân sách quốc phòng thực, RDEBT tốc độ tăng trưởng thực của khoản nợ của chính phủ, GSF được định nghĩa là tốc độ tăng trưởng thực các khoản chi tiêu khác của chính phủ, Y là tốc độ tăng trưởng của tổng sản lượng nội địa thực khu vực tư nhân, và M2 là tốc độ tăng trưởng của tiền. Bảng: Kiểm định F giữa chi tiêu của chính phủ và GDP thực thuộc khu vực tư, 1952 đến 1991 Trang 11 Đ tài 4 Nhóm 6 *: Xác suất 6% hoặc nhỏ hơn cho thấy ảnh hưởng của các biến đến tốc độ tăng GDP có sự thay đổi. Chú ý: Tất cả các biến được tính theo giá 1987 được đo lường bằng logarit cơ số tự nhiên Kết quả thực nghiệm từ mô hình Bảng 2 báo cáo một số kết quả ước tính của mô hình với độ trễ là 1, 2,3 năm. Kiểm định F được tính toán để đánh giá chi tiêu cho giáo dục, đào tạo lao động, nông nghiệp, hỗ trợ thu nhập, và an toàn dân sự tác động đến tăng trưởng GDP tư nhân thực với độ trễ là một, hai, và ba năm . Bảng này cho thấy nông nghiệp không có ý nghĩa thống kê tại bất kỳ độ trễ nào. Bốn loại chi tiêu khác cho thấy ý nghĩa thống kê ở mức 5,5% hoặc ít hơn. Các phân tích hay dự báo tiếp theo từ VAR, chiều dài độ trễ k = 1 được lựa chọn để giữ bậc tự do (degrees of freedom). Những ước lượng cho các thông số của mô hình với một độ trễ nhất định được sử dụng để phát triển các hàm phản ứng thúc đẩy (impulse-response functions) từ đó vạch ra các ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thực từ việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng và nợ liên bang, tăng chi tiêu của chính phủ vào các Trang 12 Đ tài 4 Nhóm 6 lĩnh vực nói trên. Việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng và nợ liên bang được đề cập tại đây bởi vì bước tiếp theo trong phân tích của bài nghiên cứu này là thực hiện một thử nghiệm chính sách tương tự như trong nghiên cứu Ireland Otrok (1992). Từ Hình 1-A đến 1-G mô tả các hàm phản ứng thúc đẩy và thể hiện mức độ phản ứng của GDP thực thuộc khu vực tư như thế nào nếu đã có một cú sốc số hạng sai số lên tốc độ tăng trưởng của 1 dạng chi tiêu chính phủ đặc biệt. Đây là một phương pháp phổ biến giúp cho các nhà nghiên cứu có thể kiểm tra khi áp dụng một cú sốc từ việc thay đổi đáng kể độ lệch chuẩn của các biến. Việc giới hạn cú sốc ở một độ lệch chuẩn xác định nhằm đảm
Luận văn liên quan