Tiểu luận Định hướng phát triển và giải pháp cho thương mại dịch vụ Việt Nam

Hội nhập kinh tếlà sựvận dụng của xu thếtoàn cầu hóa kinh tếphục vụ yêu cầu vềkinh tế, chính trịcủa mỗi quốc gia. Các quốc gia muốn phát triển được không thểtiếp tục thực thi chính sách đóng cửa kinh tế, mà cần phải hội nhập nhưmột xu thếtất y ếu.Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tếthếgiới các liên kết kinh tếcó vai trò hết sức quan trọng vì nó tạo ra khung khổpháp lý và môi trường kinh doanh thuân lợi cho các nước. Đồng thời giúp các thành viên tận dụng được lợi thếcủa mình. ACFTA (ASEAN – China free trade area – khu vực mậu dịch tựdo Trung Quốc - ASEAN) là một liên kết kinh tếcó ý nghĩa quan trọng với cảcác nước Đông Nam Á và Trung Quốc. So với các nước ASEAN khác Việt Nam lại có thêm lợi thếvềvịtrí địa lý gần gũi, phong tục tập quán có nhiều nét tương đồng, do đó có thểphát triển quan hệhợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực nhất là thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, so với một sốnước khác trong khu vực chúng ta vẫn còn tồn tại những yếu kém vềcơsởhạtầng, khoa học kỹthuật, nguồn nhân lực Do đó đây là một cơhội lớn nhưng cũng có rất nhiều thách thức. Hội nhập cũng là một quá trình sẽtạo ra những sựcạnh tranh hết sức gay gắt, do đó các nước phải có sựchuẩn bịkỹcàng vềmọi mặt: Từkinh tế, đến chính trị, đến việc hoàn thiện cơchếchính sách pháp luật, và tăng cường nhận thức của doanh nghiệp cũng nhưcủa người dân Vì vậy nghiên cứu những ảnh hưởng của ACFTA đến dịch vụViệt Nam đồng thời tìm hiểu một sốgiải pháp cho sự phát triển của thương mại dịch vụlà rất cần thiết.

pdf37 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3064 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Định hướng phát triển và giải pháp cho thương mại dịch vụ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế LỜI MỞ ĐẦU Hội nhập kinh tế là sự vận dụng của xu thế toàn cầu hóa kinh tế phục vụ yêu cầu về kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. Các quốc gia muốn phát triển được không thể tiếp tục thực thi chính sách đóng cửa kinh tế, mà cần phải hội nhập như một xu thế tất yếu.Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới các liên kết kinh tế có vai trò hết sức quan trọng vì nó tạo ra khung khổ pháp lý và môi trường kinh doanh thuân lợi cho các nước. Đồng thời giúp các thành viên tận dụng được lợi thế của mình. ACFTA (ASEAN – China free trade area – khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN) là một liên kết kinh tế có ý nghĩa quan trọng với cả các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. So với các nước ASEAN khác Việt Nam lại có thêm lợi thế về vị trí địa lý gần gũi, phong tục tập quán có nhiều nét tương đồng, do đó có thể phát triển quan hệ hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực nhất là thương mại dịch vụ . Tuy nhiên, so với một số nước khác trong khu vực chúng ta vẫn còn tồn tại những yếu kém về cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực…Do đó đây là một cơ hội lớn nhưng cũng có rất nhiều thách thức. Hội nhập cũng là một quá trình sẽ tạo ra những sự cạnh tranh hết sức gay gắt, do đó các nước phải có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt: Từ kinh tế, đến chính trị, đến việc hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật, và tăng cường nhận thức của doanh nghiệp cũng như của người dân… Vì vậy nghiên cứu những ảnh hưởng của ACFTA đến dịch vụ Việt Nam đồng thời tìm hiểu một số giải pháp cho sự phát triển của thương mại dịch vụ là rất cần thiết. Đây là một đề tài rộng, do đó người viết chỉ có thể nghiên cứu dược một số vấn đề cơ bản: Thực trạng của thương mại dịch vụ Việt Nam, Nội dung cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong ACFTA, Tác động của cam kết đối với sự phát triển thương mại dịch vụ Việt Nam, cuối cùng là đưa ra một số giải pháp và kiến nghị mang tính chất gợi ý ban đầu đơn giản nhất. Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế Đề tài chủ yếu nghiên cứu ảnh hưởng của ACFTA đến thương mại dịch vụ Việt Nam. Tuy nhiên ta cũng biết Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995, đây là một tổ chức kinh tế có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với các nước Đông Nam Á nhưng cũng có những hạn chế do các nước này phần lớn là nước nông nghiệp, và lại có cơ cấu kinh tế giống nhau nên chưa bổ sung được cho nhau. Tham gia khu vực mậu dịch tự do ACFTA Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mới. Vì vậy ở đây sẽ chủ yếu đề cập đến những ảnh hưởng từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam trong khuôn khổ ACFTA. Trong đó thời gian: Kể từ khi Việt Nam, Trung Quốc và các nước ASEAN ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện vào 4/11/2001. Phương pháp nghiên cứu: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, duy vật lịch sử,… Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù chúng em đã hết sức cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Mong thầy giáo và các bạn quan tâm và đóng góp ý kiến cho chúng em. Chúng em xin chân thành cảm ơn! Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế CHƯƠNG MỘT GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VIỆT NAM I- Các khái niệm cơ bản Dịch vụ là kết quả Lao động xã hội mà sản phẩm tạo ra không tồn tại dưới dạng hình thái vật chất, trong đó quá trình cung ứng và tiêu thụ dịch vụ không thể tách rời nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Thương mại dịch vụ: là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, hay nói chính xác khái niệm dùng để nhấn mạnh khía cạnh thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Người ta thường phân biệt Thương mại dịch vụ và Thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ chính là dịch vụ cung ứng nhằm mục đích kinh doanh và thu lợi nhuận (bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, khách sạn…) Thương mại dịch vụ có thể phân chia căn cứ theo mục tiêu, gồm: dịch vụ phân phối, dịch vụ sản xuất, dịch vụ cá nhân, dịch vụ xã hội. Phân loại theo GATT gồm các nhóm ngành: dịch vụ môi trường, dịch vụ giáo dục, dịch vụ phân phối, dịch vụ xây dựng, dịch vụ thông tin (viễn thông), dịch vụ kinh doanh, dịch vụ tài chính, dịch vụ y tế, dịch vụ du lịch, dịch vụ văn hóa, giải trí, dịch vụ vận tải. II- Thực trạng thương mại dịch vụ Việt Nam Ở Việt Nam, trước thời kì đổi mới, thương mại là một ngành ít phát triển do thực hiện cơ chế quản lý hành chính mệnh lệnh, hàng hóa không được đưa ra trao đổi trên thị trường mà thực hiện phân phối theo chế độ bao cấp, dịch vụ do đó cũng không phát triển được. Trong thời kì này, nhà nước ta ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, vì vậy dịch vụ cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế cấu kinh tế. Các loại hình dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng chỉ được thực sự phát triển sau khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa kinh tế. Tuy dịch vụ nước ta vẫn chưa phát triển như ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta, ngày nay nhà nước ta càng ý thức rõ hơn vai trò của dịch vụ trong sự phát triển kinh tế. Dịch vụ ngày càng có những đóng góp lớn cho GDP, tỷ trọng dịch vụ hiện nay ổn định trên dưới 40%. Dịch vụ cho dù chiếm tỷ trọng lớn nhưng đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Nếu như năm 1995, tỷ trọng của dịch vụ trên GDP khoảng 42-43% thì năm 2000 chỉ còn khoảng 38,73% và năm 2003 là 37,99%. Năm 2005 tỷ trọng dịch vụ của nước ta vào khoảng 38.08% trong khi đó công nghiệp là 41.03%, nông lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống chỉ còn 20.09%. Tỷ trọng của các ngành dịch vụ Việt Nam trong GDP là thấp hơn so với thế giới (Từ giữa thập kỷ 90 tỷ trọng dịch vụ trong thương mại thế giới là 60% sản xuất và việc làm của toàn cầu, riêng với Mỹ là 80%) và cả các nước đang phát triển trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Phillipines. Theo kế hoạch, đến năm 2010, tỷ trọng dịch vụ trong GDP chiếm 43-45% có nghĩa là mức tăng trưởng phải đạt 9-10%/năm và cao hơn mức tăng trưởng GDP (khoảng 8 đến 8,5%). Năm 2004, tốc độ tăng trưởng của dịch vụ là 7,47% và thấp hơn mức tăng trưởng GDP chung là 7,69%. .Tuy nhiên đến năm 2005 khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao hơn hẳn đó là 8,5%. Trong khu vực này các ngành có tỷ trọng lớn và thuộc lĩnh vực dịch vụ kinh doanh như thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện, du lịch; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức tăng của từng ngành trong năm trước: Thương nghiệp năm nay tăng 8,3% (năm 2004 tăng 7,8%); Khách sạn nhà hàng tăng 17% (năm 2004 tăng 8,1%); Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6% (năm 2004 tăng 8,1%)... Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế Tỷ trọng dịch vụ trong GDP 48 37.4 50.3153.02 51.54 51.45 41.4 41.0 38.5 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 C«ng nghiÖp N«ng nghiÖp DÞch vô Trị giá xuất nhập khẩu dịch vụ năm 2005 ước tính đạt 9,3 tỷ USD, tăng 6%, trong đó xuất khẩu dịch vụ 4,26 tỷ USD, tăng 7,2%; nhập khẩu dịch vụ 5,04 tỷ USD, tăng 5%. Cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ (BOP) -2000 -1000 0 1000 2000 3000 4000 19 92 19 93 19 94 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 C¸n c©n dÞch vô NhËp khÈu dÞch vô XuÊt khÈu dÞch vô Linear (C¸n c©n dÞch vô ) Nguồn: Thống kê IMF (tháng 12/2003) Hiện nay ngành dịch vụ thu hút được khá nhiều đầu tư của toàn bộ nền kinh tế(72%), trong khi đó đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo chỉ chiếm 20% cơ cấu đầu tư của toàn xã hội. Dù vậy tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào ngành dịch vụ còn thấp. Cơ cấu đầu tư vào dịch vụ nước ta hiện nay cũng thay đổi, tỷ trọng đầu tư vào những ngành như du lịch, tài chính, ngân hàng, ngày càng Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế tăng. Năm 2003 những ngành dịch vụ có tỷ trọng nhiều nhất trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam bao gồm dịch vụ thương nghiệp (phân phối, sửa chữa...) chiếm 14,5% GDP, dịch vụ xây dựng (6%), các dịch vụ khác như tài chính, viễn thông có tỷ trọng thấp hơn khoảng 2-3%... Dịch vụ cũng là một ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động nước ta. Đối với một đất nước mà 80% dân số còn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như nước ta, mà nông nghiệp lại là một ngành phụ thuộc nhiều vào thời tiết và giá cả lại không ổn định thì ngành dịch vụ có vai trò quan trọng. Nước ta hiện nay có khoảng 38 triệu lao động, trong đó 24,1% lao động trong ngành dịch vụ, 65,3% lao động trong ngành nông nghiệp, 10% trong công nghiệp. Do đó việc phát triển dịch vụ là tất yếu. Tuy vậy dịch vụ nước ta vẫn còn một số hạn chế: Dịch vụ nước ta là một lĩnh vực mới, nhỏ lẻ, thương mại dịch vụ còn rất hạn chế. Trước thời kỳ đổi mới dịch vụ bị coi nhẹ và đến nay vẫn để lại hậu quả nặng nề trong nhận thức của người dân và ngay cả trong cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Tốc độ tăng trưởng không đồng đều. So với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới thì tỷ trọng dịch vụ của Việt Nam còn thấp. Năng lực cạnh tranh của một số ngành dịch vụ còn thấp. Do trình độ phát triển còn thấp song song với nhận thức chưa đầy đủ về dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng. Bởi đây vẫn được coi là một ngành “phi vật chất” không tạo ra của cải cho xã hội. Do sự yếu kếm của dịch vụ thương mại đã cho phép một số nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sớm có cơ hội đặt chân và bành trướng thị phần tại Việt Nam. Đặc biệt là một số ngành như viễn thông, phân phối (hệ thống siêu thị nước ta Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế hoạt động còn kém hiệu quả, chưa cạnh tranh được với siêu thị của nước ngoài). Các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ hoạt động còn kém hiểu quả, công tác thống kê, so sánh chưa được quan tâm, chưa có nhận thức đúng đắn về thương mại dịch vụ theo GATS. III- Tiềm năng phát triển một số ngành dịch vụ ở nước ta trong khuôn khổ ACFTA: 1) Dịch vụ du lịch: Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển ngành du lịch, do có nhiều cảnh quan tự nhiên, nhiều di tích lịch sử....Du lịch cũng là ngành giúp tăng cường giao lưu văn hóa, giải trí...Do vậy xu hướng của người dân thế giới hiện nay dùng một khoản không nhỏ để dành cho hoạt động du lịch, nhất những nước như Nhật Bản. Du lịch đóng góp không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc dân của mỗi nước. Du lịch càng phát triển càng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo. Năm 2003, thu nhập từ dịch vụ du lịch của Việt Nam đạt khoảng 1,3 tỷ USD, năm 2005 đạt 2,1 tỷ USD, chiếm khoảng 4,9%GDP của Việt Nam. Việt Nam, năm 2000 đã tăng lên 150.000 lao động và lao động gián tiếp ước khoảng 330.000 lao động. Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng, năm 2005 ước tính đạt 3,47 triệu lượt người, tăng 18,4% so với năm trước, trong đó khách đến du lịch 2,04 triệu, tăng 28,9%; thăm thân nhân 505,3 nghìn lượt người, tăng 8,1%; vì mục đích khác 427,6 nghìn lượt người, tăng 20,5%; riêng khách vào vì công việc 493,3 nghìn lượt người, giảm 5,4%. Khách đến Việt Nam từ Mỹ tăng 22,4%; từ Hàn Quốc tăng 36,1%; từ Nhật Bản tăng 20%, từ Đài Loan tăng 11,5%; từ Cam-pu-chia tăng 105,4%; từ Ô-xtrây-li-a tăng 13%, từ Pháp tăng 21,5%. Đáng chú ý là trong năm nay, khách vào tăng mạnh (trên 50%) ở một số nước có tỷ trọng không lớn như từ Xin-ga-po, Thái Lan, Nga, Tây Ban Nha. Riêng khách đến từ CHND Trung Hoa chiếm tỷ lệ cao nhất trong số khách đến, nhưng lại giảm Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế 3,3% so với 2004(từ 30% năm 2004 xuống còn 26,7% năm 2005).Hiện nay lượng khách du lịch vẫn tiếp tục tăng nhanh. Tuy nhiên du lịch Việt Nam phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du lịch phong phú của đất nước, khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Dịch vụ du lịch đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch Trung Quốc và nhiều nước trong khu vực. Hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên, chưa được đầu tư tôn tạo. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu kém, thiếu đồng bộ. Hệ thống pháp luật về du lịch còn thiếu và chưa đồng bộ. Hiện nay nhà nước đang có những chính sách cải cách về pháp luật để cải thiện vấn đề trên. Việt nam và các nước trong ACFTA có vị trí địa lý gần gũi, đặc biệt với Trung Quốc chúng ta còn có sự gần gũi về phong tục tập quán, văn hóa, truyền thống... Do đó việc giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc tồn tại hết sức tự nhiên. Du lịch trong nội bộ khu vực chi phí lại không cao. Mạng lưới giao thông giữa các nước hiện nay rất thuận lợi cũng là một yếu tố quan trọng. Tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa của Việt Nam phong phú và đa dạng, có nhiều điểm du lịch tự nhiên hấp dẫn như Vịnh Hạ Long, động Phong Nha và có các di sản văn hóa được công nhận là di sản văn hóa thế giới như Hội An, Cố Đô Huế. Việt Nam có hệ sinh thái động - thực vật rừng đa dạng. Đặc biệt, Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào, người dân mến khách và bản sắc văn hoá đậm đà. Mặt khác chúng ta lại có đường bờ biển dài rộng. Chính những điểm mạnh đó đã giúp du lịch Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng. Nhu cầu về dịch vụ du lịch tăng mạnh: Thu nhập người dân tăng đã thúc đẩy du lịch trong nước và nước ngoài phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khách du lịch Trung Quốc và các nước ASEAN khác sang Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế Tuy chúng ta còn yếu kém về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, và trình độ quản lý, nhưng trong khuôn khổ ACFTA sẽ giúp ta có cơ hội cải thiện những vấn đề trên. 2) Dịch vụ vận tải : Vận tải đóng một vai trò trọng yếu trong việc phát triển kinh tế - xã hội và là ngành thu hút nhiều lao động nhất của hai nước. Việt Nam tập trung ưu tiến phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và xây dựng luật pháp về giao thông vận tải, đã tạo thuận lợi cho dịch vụ vận tải phát triển. Hệ thống tiêu chuẩn bước đầu đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Hiện nay ngành vận tải có những thành tựu đáng chú ý :Vận chuyển hành khách: năm 2005 ước tính đạt 1267,4 triệu lượt hành khách và 53,3 tỷ lượt hành khách.km, so với năm trước tăng 7,5% về lượt khách và tăng 11,8% về lượt khách.km, trong đó vận chuyển bằng đường bộ và đường không tăng khá hơn, riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm 1,3% về số lượt khách và chỉ tăng 4,7% về số lượt khách.km so với năm 2004. Vận chuyển hàng hoá: năm 2005 ước tính đạt 324,2 triệu tấn và 81,1 tỷ tấn.km, so với năm 2004, tăng 7,3% về tấn và tăng 6,7% về tấn.km. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển tăng 5,7% về tấn và tăng 6,3% về tấn.km; vận chuyển bằng đường bộ tăng 8,3% và tăng 9,2%...; riêng vận chuyển hàng hoá bằng đường sắt giảm 0,4% về tấn. Mặc dù trong năm 2005 giá xăng dầu tăng cao, gây áp lực tăng cước phí vận tải, nhưng các ngành vận tải đã có nhiều cố gắng đáp ứng nhu cầu sản xuất và đi lại của dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trật tự an toàn giao thông trong năm vẫn là vấn đề đáng quan tâm và cần được tiếp tục khắc phục. Riêng với Trung Quốc Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, có thể tham gia tốt vào hệ thống giao thông giữa khu vực vận tải Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây. Hiện nay ASEAN là đối tác lớn thứ năm của khu vực. Tính riêng Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế tỉnh Vân Nam, quan hệ với ASEAN chiếm 85% tổng kim ngạch của toàn tỉnh. Ngoài ra nước ta còn có biên giới trên bộ với Lào, Campuchia, cũng rất thuận lợi cho giao thông vận tải. Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chiếm vị trí hàng đầu trong đầu tư phát triển kinh tế. Việt Nam cũng như các nước ACFTA có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ vận tải, nhất là Việt Nam, nằm trên tuyến vận tải biển quốc tế Đông Tây, tuyến này chiếm 85% lượng vận chuyển hàng hóa thế giới. Thế mạnh của Việt Nam là lao động trong ngành dịch vụ vận tải dồi dào, giá nhân công rẻ. Bước đầu tích lũy được kinh nghiệm trong việc cung cấp dịch vụ quốc tế; các quy định về đầu tư phát triển dịch vụ vận tải đã thông thoáng hơn. Tuy vậy, lợi thế về lao động vẫn bị hạn chế do trình độ cán bộ về tiếng Anh và hiểu biết pháp lý về hội nhập và kinh nghiệm hợp tác đa phương chưa cao. Tính chủ động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải còn hạn chế, còn có tư tưởng ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước, năng lực cạnh tranh còn thấp. 3) Dịch vụ phân phối Tiềm năng về phát triển thị trường dịch vụ phân phối : ACFTA là một thị trường lớn, đầy tiềm năng với hơn hai tỷ người, rất thuận lợi cho dịch vụ phân phối. Hiện cả nước có khoảng 170 siêu thị, trung tâm thương mại và hơn 600 cửa hàng tự chọn. Tuy nhiên, quy mô kinh doanh còn nhỏ lẻ, manh mún, vốn ít và công nghệ quản lý và điều hành hạn chế, lại ít kinh nghiệm về thị trường, doanh số của siêu thị lớn nhất VN hiện nay cũng chỉ đạt khoảng 200 tỷ đồng/năm. Nhưng trong khuôn khổ ACFTA cũng là một cơ hội để ta cạnh tranh và cải thiện những khiếm khuyết trên. Tiềm năng về ứng dụng công nghệ thông tin: Hình thức trong lĩnh vực này với rất nhiều tiện ích, tiết kiệm thời gian và chi phí ngày càng thu hút được sự quan tâm của khách hàng. Việt Nam và Trung Quốc đều là những quốc gia Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế có nền công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và đã bắt đầu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trao đổi, phân phối. 4) Dịch vụ viễn thông: Mật độ điện thoại ở nước ta còn thấp (mới đạt 12% vào cuối 2004), trong khi năng suất và hiệu quả kinh doanh viễn thông chưa cao....Tuy nhiên có thể tăng nhanh vào những năm tiếp theo: dự báo đến 2010, thị trường viễn thông sẽ phát triển như sau: mật độ điện thoại đạt 24-26 máy/100 dân, trong đó cố định là 14 máy/100 dân, di động là 18 máy/100 dân, mật độ Internet sẽ đạt 13 thuê bao/100 dân, trong giai đoạn từ nay đến 2010, tốc độ tăng trưởng viễn thông và Internet sẽ cao gấp 1,5-2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tiềm năng và triển vọng phát triển dịch vụ viễn thông của Việt Nam còn rất lớn. Chính sách của Việt Nam cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã được tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông. Để tăng cường năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong nước, Việt Nam đã ban hành các chính sách tạo cho doanh nghiệp quyền tự chủ về giá cước, các quy định về kết nối, xây dựng Quỹ dịch vụ phổ cập để tách bạch hoạt động kinh doanh và công ích... từng bước đáp ứng yêu cầu theo thông lệ và qui tắc của quốc tế. Tiềm năng về đầu tư trực tiếp cung cấp dịch vụ: Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao trong gần 20 năm qua nhưng quy mô mạng lưới viễn thông Việt Nam còn nhỏ so với các nước khác, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, bảng so sánh cho thấy năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp khi so với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sự phát triển của viễn thông ở Việt Nam, tuy vậy vẫn chưa có sự đầu tư từ Trung Quốc. Trung Quốc đến nay mới tham gia cung cấp thiết bị (tổng đài, truyển mạch, các thiết bị đầu cuối...). Tuy nhiên, cùng với quá Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế trình hội nhập, Việt Nam cam kết mở rộng các hình thức đầu tư khác thì rất có thể sẽ mở ra những cơ hội đầu tư mới cho các doanh nghiệp Trung Quốc Tiềm năng hợp tác xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng thông tin khu vực: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về dung lượng viễn thông quốc tế, Việt Nam và các nước ACFTA đã và đang tham gia nhiều chương trình phát triển cở sở hạ tầng thông tin khu vực, như các dự án xa lộ thông tin tiểu vùng Mekong, mạng thông tin Châu Á, chương trình băng rộng Châu Á, mạng cáp quang đất liền nối Trung Quốc và các nước ASEAN, mạng cáp quang nối Việt Nam với Hồng Kông, Thái Lan... Tiềm năng về phát triển và ứng dụng công nghệ: Trung Quốc, Singapore, Thái Lan… là những nước đang có trìn
Luận văn liên quan