Những năm 1960 và 1970 là một thời kỳ quan trọng trong việc phát triển các
nghiên cứu liên về cơ cấu tổ chức. Các quan điểm thống trị thời kỳ này là lý thuyết về
ứng phó với các tình huống bất ngờ. Lý thuyết quản lý cổ điển đã thống trị suốt thời gian
nửa đầu thế kỷ XX lập luận rằng, một cơ cấu tổ chức duy nhất sẽ mang lại hiệu quả trong
tất cả các lại hình tổ chức (Donaldson, 1996). Ngược lại, những người ủng hộ lý thuyết
về ứng phó với các tình huống bất ngờ lập luận rằng cách tốt nhất và phù hợp nhất là cơ
cấu phải phản ánh được nhu cầu thực tế Burns và Stalker (1961) là ví dụ điển hình cho
quan điểm trên. Căn cứ các cuộc nghiên cứu tình huống cho thây, để đảm bảo một hệ
thống hoạt động ổn định thì các cơ cấu trong hệ thống phải hoạt động tốt, trong khi đặc
điểm của hệ thống là dựa trên những yêu cầu cao về khả năng thích nghi với môi trường
và những công việc không rõ ràng, lại đòi hỏi phải có một cấu trúc cơ bản. Một nghiên
cứu tiên phong có tầm quan trọng không kém của Lawrence và Lorsch (1967) cho rằng,
tốc độ thay đổi môi trường nên xác định theo mức độ của sự khác biệt về cấu trúc và hội
nhập trong một tổ chức. Dựa trên mẫu điều tra của các công ty trong 3 ngành công
nghiệp, Lawrence và Lorsch (1967) cũng thấy rằng các tổ chức có cơ cấu phù hợp với
môi trường ngành sẽ có hiệu suất cao hơn. (Donaldson, 1996), một trong những nhà
nghiên cứu đầu tiên tìm thấy sự ràng buột giữa cơ cấu và hiệu quả. Công trình nghiên cứu
này phù hợp với quan điểm của Simon (1957), March vàSimon (1958) trong việc tin
tưởng tuyệt đối rằng nền kinh tế phải dựa trên thị trường và đáp ứng các điều kiện thị
trường (Fligs tein và Freeland, 1995).
Những nghiên cứu tiếp theo trong giai đoạn này đã mở rộng phạm vi các nhân tố
ngẫu nhiên, từ đó tác động đến việc hình thành lý thuyết về cơ cấu tổ chức. Ví dụ,
Chandler (1962) với lý thuyết cấu trúc liên quan đến chiến lược công ty; Woodward
(1965) và Perrow (1967) điều tra những ảnh hưởng của công nghệ;Thompson (1967) và
Galbraith (1973) nghiên cứu ảnh hưởng của những công việc không rõ ràng; Khandwalla
(1977) nghiên cứu những ảnh hưởng của môi trường bất lợi; Dewar và Duncan (1977)
liên quan đến chiến lược về sự đổi mới cơ cấu; và Blau (1970) nghiên cứu về đo lường
hiệu quả trong cơ cấu.
47 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Động lực thay đổi cấu trúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI
ĐỀ TÀI :
ĐỘNG LỰC THAY ĐỔI CẤU TRÚC
Thầy hướng dẫn :
TS. Nguyễn Hữu Lam
ThS. Trần Hồng Hải
Nhóm 6:
1. Trần Thái Bảo
2. Tôn Thất Kỳ Nam
3. Trần Thị Ánh Nguyệt
4. Phan Thị Sao Vi
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
Những năm 1960 và 1970 là một thời kỳ quan trọng trong việc phát triển các
nghiên cứu liên về cơ cấu tổ chức. Các quan điểm thống trị thời kỳ này là lý thuyết về
ứng phó với các tình huống bất ngờ. Lý thuyết quản lý cổ điển đã thống trị suốt thời gian
nửa đầu thế kỷ XX lập luận rằng, một cơ cấu tổ chức duy nhất sẽ mang lại hiệu quả trong
tất cả các lại hình tổ chức (Donaldson, 1996). Ngược lại, những người ủng hộ lý thuyết
về ứng phó với các tình huống bất ngờ lập luận rằng cách tốt nhất và phù hợp nhất là cơ
cấu phải phản ánh được nhu cầu thực tế Burns và Stalker (1961) là ví dụ điển hình cho
quan điểm trên. Căn cứ các cuộc nghiên cứu tình huống cho thây, để đảm bảo một hệ
thống hoạt động ổn định thì các cơ cấu trong hệ thống phải hoạt động tốt, trong khi đặc
điểm của hệ thống là dựa trên những yêu cầu cao về khả năng thích nghi với môi trường
và những công việc không rõ ràng, lại đòi hỏi phải có một cấu trúc cơ bản. Một nghiên
cứu tiên phong có tầm quan trọng không kém của Lawrence và Lorsch (1967) cho rằng,
tốc độ thay đổi môi trường nên xác định theo mức độ của sự khác biệt về cấu trúc và hội
nhập trong một tổ chức. Dựa trên mẫu điều tra của các công ty trong 3 ngành công
nghiệp, Lawrence và Lorsch (1967) cũng thấy rằng các tổ chức có cơ cấu phù hợp với
môi trường ngành sẽ có hiệu suất cao hơn. (Donaldson, 1996), một trong những nhà
nghiên cứu đầu tiên tìm thấy sự ràng buột giữa cơ cấu và hiệu quả. Công trình nghiên cứu
này phù hợp với quan điểm của Simon (1957), March vàSimon (1958) trong việc tin
tưởng tuyệt đối rằng nền kinh tế phải dựa trên thị trường và đáp ứng các điều kiện thị
trường (Fligstein và Freeland, 1995).
Những nghiên cứu tiếp theo trong giai đoạn này đã mở rộng phạm vi các nhân tố
ngẫu nhiên, từ đó tác động đến việc hình thành lý thuyết về cơ cấu tổ chức. Ví dụ,
Chandler (1962) với lý thuyết cấu trúc liên quan đến chiến lược công ty; Woodward
(1965) và Perrow (1967) điều tra những ảnh hưởng của công nghệ;Thompson (1967) và
Galbraith (1973) nghiên cứu ảnh hưởng của những công việc không rõ ràng; Khandwalla
(1977) nghiên cứu những ảnh hưởng của môi trường bất lợi; Dewar và Duncan (1977)
liên quan đến chiến lược về sự đổi mới cơ cấu; và Blau (1970) nghiên cứu về đo lường
hiệu quả trong cơ cấu.
Nhóm 6 Trang 1
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
Cũng trong giai đoạn này, một số trung tâm nghiên cứu đã xoay quanh các vấn đề
liên quan đến thiết kế tổ chức, đáng chú ý nhất là nhóm Aston (Pugh, Hickson, và
Hinings, 1969; Pugh và Hinings, 1976), đã đưa ra nghiên cứu về các phương pháp đo
lường và khảo sát liên quan đến cấu trúc. Chandler (1962), Lawrence và Lorsch (1967),
và một số nhà nghiên cứu khác đã có những đóng góp quan trọng trong hoạt động nghiên
cứu liên quan đến lý thuyết ứng phó với các tình huống bất ngờ tại Đại học Harvard. Cuối
cùng, Galbraith (1973), Trist (1963), Van de Ven (Van de Ven và Delbecq, 1974) và
Ferry (Văn de Ven và Ferry, 1980) đã thành lập trường Wharton, như là một trung tâm
công nhận cho các hoạt động nghiên cứu về thiết kế tổ chức.
Bắt đầu cuối những năm 1970 và tăng nhanh vào năm các năm 1980 và 1990, đã
đánh dấu sự thay đổi trong nghiên cứu liên quan đến cơ cấu tổ chức. Một số dòng của
nghiên cứu nổi lên xung quanh quan điểm rằng môi trường là yếu tố quyết định mạnh mẽ
trong vấn đề thiết kế tổ chức. Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự thay đổi trong môi trường
làm việc không dễ dàng dẫn đến sự thay đổi về tổ chức, điều này được dự báo bởi lý
thuyết về ứng phó với các tình huống bất ngờ (Fligstein và Freeland, 1995). Một quan
điểm cho rằng quyền lực của những người ra quyết định trong công ty nhằm giải quyết
các vấn đề về phụ thuộc nguồn nội lực, đây là một chức năng trong khả năng, kiến thức,
và liên đới với các yếu tố bên ngoài thế giới của các nhà lãnh đạo. Môn sinh thái học
quần thể (Hannan và Freeman, năm 1977, 1984) nổi lên như là một quan điểm khác liên
quan đến việc phụ thuộc nguồn lực nhưng nhân mạnh đến sự lựa chọn thị trường và hiệu
quả của các nguyên tắc. Quan điểm này ủng hộ rằng sự thay đổi xảy ra phụ thuộc vào sự
lựa chọn các loại hình của tổ chức ở cấp độ công ty, trong khi sự thay đổi trong nội bộ tổ
chức lại khó khăn khăn hơn do cơ cấu trì trệ.
Lý thuyết về thể chế (DiMaggio và Powell, 1983; DiMaggio, 1988; Scott và
Meyer, 1994 Zucker;1977) đại diện cho sự thay đổi quan điểm hoàn thiệt nhất về khái
niệm đi từ các mô hình dựa trên kỹ thuật môi trường và các lựa chọn về chiến lược, tập
trung chủ yếu vào xây dựng các tổ chức thế giới đồng minh (Fligstein và Freeman, 1995).
Powell và DiMaggio (1991) đã bác bỏ các mô hình tổ chức đáng tin cậy, thông qua việc
tranh luận về vấn đề văn hóa và giải thích những nhận thức cơ bản tác động đến hành
Nhóm 6 Trang 2
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
động và động cơ cá nhân. Tolbert và Zucker (1996) lưu ý rằng nhiều tài liệu gây tiếng
vang như tư tưởng tiến bộ về cấu trúc và vai trò của cấu trúc trong việc ra quyết định thể
được tìm thấy từ các bài thuyết trình của Meyer và Rowan (1977).
Phân tích của họ được định hướng từ một quan điểm quan trọng là các cấu trúc
chính thức có các thuộc tính chủ động phát sinh. Nói cách khác, cấu trúc có thể áp dụng
cho các công việc mang tính xã hội, vì vậy, ngoài mục tiêu chức năng của mình, cấu trúc
có thể cung cấp các thông tin về tổ chức cho cả 2 đối tượng trong và ngoài công ty. Để
giải thích cho một cấu trúc chính thức, bắt nguồn từ những điểm thuận lợi đã cung cấp
cho các nhà nghiên cứu về tổ chức cơ hội để khám phá ra mảng kiến thức mới đi vào
nguyên nhân và hậu quả trong việc thiết lập cơ cấu tổ chức (Tolbert và Zucker, năm 1996
p. 177).
Những quan điểm nghiên cứu này đã thống trị các nghiên cứu về cấu trúc trong
những năm gần đây. Trong nhiều công việc này, cấu trúc chỉ được xem như là một biến
phụ thuộc, được xác định bởi các yếu tố bên ngoài công ty. Những kiểu nghiên cứu được
tin tưởng trong một phạm vi rộng, có cơ sở dữ liệu theo chiều dọc nhưng thường thiếu sự
phong phú và các chi tiết liên quan đến đặc trưng chuyển đổi cơ cấu dựa vào các nghiên
cứu đã qua. Burrell và Morgan (1979) đã tiên đoán sự thay đổi các thuyết thống trị bằng
cách nhận định một số lý thuyết tổ chức đối lập. Họ lập luận rằng lý thuyết tổ chức được
xác định bằng một trong hai giả định cơ bản, tổ chức là do xã hội xác lập hoặc do chính
lãnh đạo công ty lựa chọn.Tương tự, Astley và Van de Ven (1983) đã bổ sung quan niệm
trên thông qua 6 cuộc tranh luận ngầm gây gắt, thể hiện trong các tài liệu lý thuyết về tổ
chức. Một trong những trọng tâm của các cuộc tranh luận tập trung vào câu hỏi “Có phải
các phương tiện kỹ thuật của các tổ chức trung lập đã xây dựng nhằm đạt được mục tiêu,
hoặc là họ thể chế hóa các biểu hiện về mong muốn lợi nhuận từ cơ cấu quyền lực”
(Astley? và Van de Ven, 1983, p. 264). Van de Ven và Poole (1988) đã ghi nhận về vấn
đề nghịch lý của cơ cấu hoạt động. Hầu hết các lý thuyết cơ cấu tổ chức cho rằng hành
động của các cá nhân đều hướng theo mục tiêu mong đợi của họ, nhưng họ cũng nhận ra
rằng một trong những vai trò của cấu trúc là bao hàm và hướng vào các hoạt động cá
nhân để phục vụ cho các mục tiêu lớn hơn. Căn cứ thuyết đối lập, theo Van de Ven và
Nhóm 6 Trang 3
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
Poole, được đề cập trong một phương pháp lý luận nghịch: hầu hết các nhà nghiên cứu đo
lường các biến phản ánh cơ cấu xã hội nhưng không hoạt động.
Tóm lại, phần lớn các nghiên cứu của những năm 1960 và 1970 giả định cơ cấu tổ
chức đã được thiết kế thông qua một quá trình ra quyết định hợp lý, và sự lựa chọn cơ cấu
là tập xác định mức độ hiệu quả và hiệu suất. Chúng tôi phân loại nghiên cứu này như là
các quan điểm chiến lược trung gian, sự phụ thuộc của nó vào các yếu tố về quyết định
nội bộ tổ chức và chiến lược cơ cấu. Trái ngược với thời gian đầu của giai đoạn, các
nghiên cứu tiếp theo sau vào thập niên 1980 và 1990 đã giải thích sự giảm sút về vai trò
trung gian và trung tâm của cơ cấu trong việc xác định hiệu suất. Thay vào đó, các quan
điểm nghiên cứu cấu trúc như sản phẩm của một tiến trình xã hội nổi bật được dựa trên
quy chuẩn của các mô phỏng phù hợp và tiêu biểu. Hơn nữa, cơ cấu không được xem như
là yếu tố chức năng hoặc trọng tâm để có thể mang lại hiệu quả cho các kết quà hoạt động
của tổ chức, nhưng là một phương tiện mang lại hiệu quả, là cách giải thích duy nhất.
Chúng tôi phân loại nghiên cứu này thành quan điểm vĩ mô / tổ chức.
Đến phần sau của những năm 1990, nghiên cứu về cấu trúc giảm nhanh chóng do
sự chiếm ưu thế bởi quan điểm vĩ mô/tổ chức. Nhóm ý tưởng thú vị về trung gian/chiến
lược đã nổi lên, nhưng không ai tạo ra được hướng vận hành chính cho các công việc
đang diễn ra (ví dụ, xem các nghiên cứu về gestalts [Miller và Friesen, 1982, 1984], phù
hợp với [Doty và Glick, 1994; Doty, Glick và Huber, 1993; Van de Ven và Drazin,
1985], và equifinality [Gresov và Drazin, 1996]). Không một quan điểm trong điểm mới
nào có liên quan đến vấn đề thay đổi nội bộ tổ chức nổi lên để có thể phù hợp với lý
thuyết ứng phó với các tình huống bất ngờ. Các quan điểm về vĩ mô/tổ chức tiếp tục
thống trị các lý luận về chuyển đổi cơ cấu.
Xem xét những xu hướng này trong các nghiên cứu hàn lâm một số lượng tài liệu
lớn và phổ biến nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ cấu tổ chức. Các chủ đề như lựa
chọn cơ cấu hoạt động (Dess, Rasheed, McLaughlin, và Priem, 1995), nổi lên là chủ đề
thiết kế tổ chức (Ashkenas, Ulrich, Jick, và Kerr, 1995; Miles, Snow, Matthews, Miles,
và Coleman, 1997; Mitroff, Mason, và Pearson, 1994), phân tán tập đoàn (Pasternak và
Viscio, 1998), và chuyển đổi cơ cấu tổ chức (Miles, 1997; O'Toole, 1995) là nội dung
Nhóm 6 Trang 4
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
chủ yếu của phần lớn công việc có liên quan đến cấu trúc và cách thức quản lý của các
nhà lãnh đạo. Hàng loạt các quyển sách viết về vấn đề tái cấu trúc (Hammer và Cha mpy,
1993), tác động của công nghệ thông tin vào thiết kế (Lucas, 1996), tổ chức theo chiều
ngang (O'Dell và Jackson, năm 1998; Ostroff, 1999), và các tổ chức phi chính thức (Re
và Cabana, 1998). Ngoài ra, nhiều ấn phẩm đã xuất hiện gần đây cấu trúc chuyên ngành
có thể đối phó với quản lý dự án (Frame, 1994; Larson và Gobelli, 1987), phát triển sản
phẩm mới (Clark và Wheelwright, năm 1995; Imai, Nonaka, và Takeuchi, 1985), các đội
(Katzenbach và Smith, 1993), và đổi mới (Tushman và O'Reilly, 1997). Nội dung của
công việc đã được định hướng về phía tổ chức thực tiễn của những năm 1990: thu hẹp, trì
hoãn, cải tiến quy trình, quy trình lưu chuyển, đổi mới tổ chức, thương mại điện tử, các tổ
chức chính thức, mạng lưới các tổ chức, và cách thích ứng.
Cách mở đầu này này dường như dẫn đến sự bế tắc trong các nghiên cứu về thay
đổi nội bộ tổ chức. Trong phần còn lại của chương này, chúng tôi cho rằng như vậy
một kết luận quá sớm. Thay vào đó, chúng tôi đề nghị những quan điểm mới về cấu trúc
và chuyển đổi cơ cấu có thể thu hút sự quan tâm đến các vị trí trung gian trong phân tích
cơ cấu tổ chức. Trong phần thứ hai chúng tôi đề cập đến phương pháp tiếp cận chính
thông quan việc đưa ra các quan điểm về tính logic của tổ chức. ''Chúng tôi định nghĩa
'''Logic” như là nhận thức, hoặc là các nguyên tắc của tổ chức, mã hóa trong tâm trí của
những người sáng lập tổ chức. Những logic sau đó được sử dụng cho việc thiết kế các tổ
chức trong thực tiễn; các bản đồ nhận thức trở thành một bộ phận của tổ chức. Chúng tôi
cho rằng yếu tố logic có 2 đặc tính song song. Nó vừa mô tả sự tổ chức cơ sở kinh tế kỹ
thuật cũng như mô tả sự phù hợp với các quy chuẩn. Trong phần 3 đến 5 của chương,
chúng tôi phân loại các tài liệu về thay đổi tổ chức thành 3 lĩnh vực sau: (1) thay đổi do
việc thành lập và xây dựng logic, (2) thay đổi khi xảy ra sự cố của một logic trước đó, và
(3) thay đổi như là dự đoán về logic. Trong mỗi phần của ba lĩnh vực trên chúng tôi xem
xét các tài liệu hiện có để xây dựng các chuỗi lý luận xung quanh vấn đề kinh tế kỹ thuật
và các quy chẩn của logic. Chúng tôi không xem xét lại tất cả các lý thuyết và thực
nghiệm, nhưng thay vào đó tiến hành kiểm tra các mẫu. Trong phần thứ sáu chúng tôi dự
Nhóm 6 Trang 5
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
đoán về các cách tiếp cận logic một cách cơ bản để hướng đến sự thay đổi cơ cấu tổ chức
trong các lý thuyết về cơ cấu tổ chức linh hoạt.
Khái niệm về logics tổ chức
Logics theo từ điển (tại www.dictionary.com), là một hệ thống lý luận chính thức,
giải thích rõ cho các nguyên tắc ''mối quan hệ giữa các yếu tố và giữa một yếu tố và cả
trong một tập hợp đối tượng, cá nhân, nguyên tắc, hoặc các sự kiện”. Logic có thể được
hiểu là nhận thức cơ bản hoặc là một kiểu tư duy giúp cho việc hình thành suy nghĩ mạch
lạc, sắp xếp trật tự các mâu thuẩn, hay sắp đặt một cách hệ thống. Mối quan hệ giữa logic
và cấu trúc được đề cập trong các định nghĩa về cấu trúc, nó mô tả '' các bộ phận được bố
trí hoặc đặt lại với nhau để tạo thành một tổ chức chung; sự tương quan hoặc sắp xếp các
bộ phận trong một thực thể phức tạp'' (www.dictionary.com). Trong máy tính khoa học,
logic mô tả các đại diện đồ họa của máy tính mạch. Trong các tổ chức, chúng tôi tranh
luận, logic là quan niệm về việc suy luận một tổ chức như thế nào nên được cơ cấu lại và
sau đó làm thế nào đó là quan niệm được đưa vào ứng dụng.
Trong các tài liệu về quản lý, các khái niệm logic trở thành một bộ phận quan
trọng trong các lý luận về tổ chức. Trong tài liệu quản lý chiến lược, Prahalad và Bettis
(1986) có lẽ là một trong những lý luận có sự liên hệ sớm nhất và gây tranh luận nhiều
nhất khi xem xét vai trò của logic trong việc giải thích hiệu quả của cơ cấu tổ chức. Họ
xây dựng lý luận về'' tầm ảnh hưởng của việc quản lý tổng quát một cách logic'' (hoặc
đơn giản hơn, tính ưu việt của logic), mà họ định nghĩa như là ''cách các nhà quản lý quan
niệm và đưa ra các quyết định quan trọng về phân bổ nguồn lực đặt trong điều kiện ràng
buột về công nghệ, phát triển sản phẩm, phân phối, quảng cáo, hoặc trong quản lý nguồn
nhân lực. Những nhiệm vụ được thực hiện bằng cách quản lý cơ sở hạ tầng nhờ vào công
cụ hành chính như sự lựa chọn của cá nhân chủ chốt, quá trình lập kế hoạch, ngân sách,
kiểm soát, bồi thường, sự nghiệp quản lý, và cơ cấu tổ chức'' (Prahalad và Bettis, 1986,
trang 490, đã nhấn mạnh).
Nhóm 6 Trang 6
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
Trong công thức này, tính ưu việt của logic là giúp xây dựng nhận thức, ''thiết lập
nhận thức và xây dựng quan điểm về thế giới” (Prahalad và Bettis, 1986, p. 491) quan
niệm rằng cả kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp để ra các quyết định, phân bổ
nguồn lực, và nhận ra các mục tiêu. Như vậy, khái niệm về một tổ chức như thế nào nên
được cơ cấu lại được đưa vào lý luận về logic tổ chức kinh doanh. Ví dụ, Prahald và
Bettis (1986, trang 494) đã nói rằng logic thế nào để dẫn đến việc đa dạng hóa chiến lược
cũng như điều khiển được cấu trúc: các tổ chức cần được cơ cấu để làm giảm hoặc chứa
“nhiều loại chiến lược'' mà giám đốc điều hành phải quản lý, thông thường''bằng cách tạo
ra trình độ quản lý tổng quát ở mức trung cấp''. Logic định hướng cho sự phát triển của
cấu trúc, tuy nhiên, cấu trúc tại một nơi, có xu hướng để phân định sự phát triển của quản
lý logic. Giống như bất kỳ biểu đồ nhận thức, tính ưu việt của lý luận phát triển và thay
đổi như là kết quả của việc học tập phương thức quản lý, được đút kết từ kinh nghiệm
thực tiễn. Nếu việc cơ cấu gây nên giới hạn cơ hội nghiên cứu nhiều hơn, và đặc biệt là
giới hạn các loại hình nghiên cứu đa dạng, sau đó tạo nên thay đổi về lợi thế logic, điều
này ít có khả năng xảy ra theo thời gian. Việc thay đổi tính thống trị logic thường xảy ra
khi phát sinh khủng hoảng kinh tế (Prahalad và Bettis, 1986), khuyến cáo các nhà quản lý
không nên học theo cách thức tư duy và hành xử dựa vào tập quán. (Hedberg, Nystrom,
và Starbuck, 1976). Trong một số ý nghĩa, sau đó, khả năng thích nghi của đặc tính thống
trị logic về tổ chức xoay quanh các nghiên cứu về tổ chức, trong một số tình huống nó
mang ý nghĩa là khả năng học về cách nghiên cứu hoặc cách học tập trong hai tình huống
đối lập nhau (Argyris và Schon, 1996; Bateson, 1972).
Trong khái niệm ban đầu, Prahalad Bettis (1986) gọi khái niệm thống trị logic để
giải thích mối liên hệ giữa đa dạng hóa chiến lược của công ty chiến lược và hiệu suất.
Tuy nhiên, trong xem xét lại quan điểm của họ, gần như một thập kỷ sau đó (Bettis và
Prahalad, 1.994) lưu ý ứng dụng của nó là rộng hơn so với định hướng đa dạng hóa
những thay đổi của tổ chức. Lập luận rằng thống trị logic là''một tài sản nổi bậc của tổ
chức khi hệ thống phức thích nghi trở nên phức tạp,''Bettis
và Prahalad (1994, trang 7) đã nêu, thống trị logic cấu thành một phần của cấu trúc cơ
bản và cơ sở chiến lược''của tổ chức, cơ cấu, và các hệ thống, và có lẽ một cái gì đó
Nhóm 6 Trang 7
Quản trị thay đổi Lớp MBA8
tương tự như của cấu trúc chi tiết”. Cụ thể hơn, Họ cho rằng ''Cơ cấu tổ chức và hệ thống
có mối liên hệ chặt chẽ cùng với thống trị logic và thể hiện các bộ phận của nó''(p. 10). Vì
vậy, sự thay đổi hình thức của cấu trúc tổ chức, và được định hình bởi, các logic thống
trị. Ở cấp độ vĩ mô, việc xây dựng logic cũng đã được sử dụng để xây dựng cơ cấu tổ
chức của các cơ quan nhà nước và các lĩnh vực về tổ chức. Trái với chiến lược, những
người dựa vào thị trường và môi trường cạnh tranh để tìm ra các các nguyên tắc của tổ
chức và cấu trúc, các học viện nghiên cứu cảnh báo về tầm quan trọng của lực lượng xã
hội và ý nghĩa của việc thể chế hóa các mô hình, đưa vào phân tích cấp độ nội bộ cơ cấu
tổ chức, như là yếu tố then chốt của hành vi và hình thức tổ chức. Như vậy, vị trí của
những người ban hành cơ chế, nguồn gốc của cơ cấu tổ chức trong phân tích ở cấp độ cao
hơn, tất cả gọi là môi trường thể chế. Trong chương về sự ảnh hưởng, Friedland và
Alford (1991, trang 243) lưu ý rằng “cơ cấu tổ chức được hình thành theo loại hình mẫu
không thể được giải thích bởi sự cạnh tranh tương tác giữa các tổ chức, công nghệ, hoặc
tổ chức cụ thể điều kiện môi trường''. Theo các nhà lý thuyết thể chế, các tổ chức bắt
chước các loại hình đặc biệt, ứng dụng, và cơ cấu lại bởi vì như vậy làm tăng tính hợp
pháp của họ, trong đó, lần lượt, tăng cường khả năng khơi gợi và tài nguyên truy cập từ
các nguồn chủ yếu. Hiệu ứng này đã được chứng minh cho cơ cấu và ứng dụng tổ chức
(Abzug và Mezias, 1993; Meyer và Rowan, 1977; Tolbert và Zucker, 1996) cũng như các
chiến lược (Deephouse năm 1996; Fligstein, 1990). Tổng quát hơn, các nhà nghiên cứu
có thể chế thể hiện những khía cạnh quy phạm của cơ cấu tổ chức, như cấu hình khuếch
tán khi thảm luận hình thức đa phương tiện (Fligstein, 1985).
Điều quan trọng, việc thể chế hóa yêu cầu mà đặc trưng cho các lĩnh vực tổ chức,
cũng như xác định các hình thức quan trọng của xã hội là yếu tố trung tâm của logic, mô
tả như là: Một tập hợp các tài liệu thực hành và biểu tượng công trình xây dựng-mà tạo
thành các nguyên tắc của tổ chức và trong đó có sẵn cho tổ chức, cá nhân xây dựng. Việc
thể chế hóa logic thuộc chủ nghĩa tư bản diễn đạt hoạt động của con người về quá trình
tích lũy và thông thương hàng hóa. Đối với nhà nước đó là hợp lý hóa và điều chỉnh các
hoạt động của con người bằng các quy định của pháp luật và bằng các cơ quan quản lý
nhà nước. Đối với vấn đề bình đẵng trong xã hội đó là sự tham gia và mở rộng công tác
Nhóm 6 Trang 8
Quản trị thay đổi Lớp MBA8