Tiểu luận Giải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Ngày nay, môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người và sinh vật. Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH, nhất là khi Việt Nam đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế- quốc tế, khắp nơi trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn và hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng. Các nhà máy, xí nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong các KCN, KCX sẽ xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp có qui mô lớn. Đây chính là cơ hội để Việt Nam có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh sự chuyển biến tích cực về mặt kinh tế là những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái do KCN gây ra. Quy hoạch phát triển và vận hành các KCN mà không có sự quan tâm đặc biệt đến môi trường đã và đang gây nên những hậu quả nghiêm trọng đến nhiều khu vực. Trong khi đó hiện nay hầu hết các công nghệ, phương pháp xử lý chất thải nguy hại tại các KCN, KCX trong cả nước đang áp dụng còn chưa thật an toàn, hoạt động giám sát và cưỡng chế áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đối với các cơ sở công nghiệp, các cơ sở vận chuyển và xử lý chất thải hiện tại còn rất yếu kém Để bảo vệ môi trường đô thị và môi trường công nghiệp, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách, chương trình thể hiện bằng các văn bản, nghị định, thông tư của Chính phủ và các bộ ngành. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường (hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, ban hành các văn bản dưới luật, nghiên cứu đổi mới cơ chế kế hoạch công tác bảo vệ môi trường.). Mặt khác, phải thường xuyên kiểm soát, thanh tra môi trường công nghiệp, khuyến khích và bắt buộc áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Khuyến khích đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi sản phẩm, đóng cửa và di dời các đơn vị cũ gây ô nhiễm môi trường

doc37 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5361 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH VIỆN MÔI TRƯỜNG š›š&›š› BỘ MÔN: MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN TIỂU LUẬN SVTH : Nguyễn Thị Hồng Nhung MSSV : 07734741 Lớp : ĐHMT3B GVHD : GS.TSKH Lê Huy Bá Tp.Hồ Chí Minh Ngày 18 tháng 07 năm 2009 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH VIỆN MÔI TRƯỜNG š›š&›š› BỘ MÔN: MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN TIỂU LUẬN SVTH : Nguyễn Thị Hồng Nhung MSSV : 07734741 Lớp : ĐHMT3B GVHD : GS.TSKH Lê Huy Bá Tp.Hồ Chí Minh Ngày 18 tháng 07 năm 2009 MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 0 I. Hiện trạng khu công nghiệp 1 II. Giải pháp 4 1. Hệ thống pháp lý 4 2. Tăng cường công cụ kinh tế 7 3. Tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp 10 4. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp 12 5. Hỗ trợ đầu tư xử lý môi trường 14 6. Công tác giáo dục và tuyên truyền 15 7. Kỹ thuật và công nghệ xử lý 17 8. Khu công nghiệp sinh thái 26 Lời kết 29 Tài liệu tham khảo 30 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người và sinh vật. Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH, nhất là khi Việt Nam đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế- quốc tế, khắp nơi trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn và hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng. Các nhà máy, xí nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong các KCN, KCX sẽ xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp có qui mô lớn. Đây chính là cơ hội để Việt Nam có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh sự chuyển biến tích cực về mặt kinh tế là những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái do KCN gây ra. Quy hoạch phát triển và vận hành các KCN mà không có sự quan tâm đặc biệt đến môi trường đã và đang gây nên những hậu quả nghiêm trọng đến nhiều khu vực. Trong khi đó hiện nay hầu hết các công nghệ, phương pháp xử lý chất thải nguy hại tại các KCN, KCX trong cả nước đang áp dụng còn chưa thật an toàn, hoạt động giám sát và cưỡng chế áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đối với các cơ sở công nghiệp, các cơ sở vận chuyển và xử lý chất thải hiện tại còn rất yếu kém Để bảo vệ môi trường đô thị và môi trường công nghiệp, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách, chương trình thể hiện bằng các văn bản, nghị định, thông tư của Chính phủ và các bộ ngành. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường (hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, ban hành các văn bản dưới luật, nghiên cứu đổi mới cơ chế kế hoạch công tác bảo vệ môi trường...). Mặt khác, phải thường xuyên kiểm soát, thanh tra môi trường công nghiệp, khuyến khích và bắt buộc áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Khuyến khích đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi sản phẩm, đóng cửa và di dời các đơn vị cũ gây ô nhiễm môi trường… ------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------- Thực trạng môi trường tại các khu công nghiệp Thu gom và xử lý chất thải rắn: đối với chất thải nguy hại hiện nay chỉ có một số doanh nghiệp đã thực hiện theo quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy hại, có hợp đồng thuê các đơn vị có chức năng và năng lực để xử lý. Phần lớn các doanh nghiệp thực hiện chưa tốt, tình trạng rác thải nguy hại thu gom và xử lý chung với rác thải công nghiệp thông thường và sinh hoạt là rất phổ biến. Thu gom và xử lý nước thải : rất ít khu công nghiệp có nhà máy xử lý nước thải tập trung, hầu hết các khu công nghiệp đều chưa có hệ thống lưu trữ và xử lý chất thải rắn an toàn về mặt môi trường, đặc biệt là chất thải nguy hại. Chúng ta chưa thống kê, đo được khối lượng chất thải độc hại, kim loại nặng (chì, thuỷ ngân, crôm...) trong các doanh nghiệp sản xuất ắc quy, cơ khí, điện tử... Hiện nay phần lớn các đơn vị đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thường không có đủ vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng như đường sá, sân bãi, cấp điện, cấp nước, giao thông, thông tin liên lạc... cơ sở hạ tầng về môi trường. Dẫn đến tình trạng chung là hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh nhưng đã có một số các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hoạt động. Vì vậy ô nhiễm môi trường khu công nghiệp là điều khó tránh khỏi. Vùng trọng điểm phía Nam, ngoài 7 khu công nghiệp đã xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung còn phần lớn các nhà máy nằm trong và ngoài khu công nghiệp đều không có hệ thống xử lý nước thải cục bộ trước khi xả vào nguồn, hoặc nếu có thì hoạt động không hiệu quả. Nhiều trạm xử lý vận hành không đúng quy cách. Hầu hết các khu công nghiệp trên cả nước đều không có hệ thống thu gom và thoát nước thải riêng với nước mưa. Nên nước thải từ các khu công nghiệp hiện nay khi thải ra môi trường không đạt tiêu chuẩn cho phép và theo kết quả quan trắc định kỳ do Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện mức độ vượt tiêu chuẩn từ 02 đến 10 lần.Khoảng 25% các dự án đầu tư trong các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải cục bộ. Nước thải từ các nhà máy được xử lý sơ bộ trước khi thải vào hệ thống thoát nước chung của khu công nghiệp. 75% các dự án còn lại đều không có hệ thống xử lý cục bộ, nước thải từ các cơ sở sản xuất được thải thẳng vào các hệ thống thu gom nước thải của các khu công nghiệp có mức độ ô nhiễm vượt tiêu chuẩn môi trường theo quy định khoảng từ 2 đến 41 lần. Thu gom và xử lý khí thải: nhiều nhà máy hoạt động gây ra tiếng ồn ở mức độ khá cao, nhà xưởng chưa thông thoáng, nhiều nơi khí độc và nhiệt thừa tích tụ trong không gian làm ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Theo các chuyên gia về môi trường tập trung hàng trăm nhà máy lớn nhỏ, vào một khu công nghiệp, tạo nên ảnh hưởng tích tụ từ nhiều nguồn ô nhiễm đến nước, không khí và đất. Nếu nhiều nhà máy sử dụng hoá chất nằm gần nhau có thể thải ra các loại hoá chất tương tác hoặc trộn lẫn gây ảnh hưởng tích luỹ hoặc cộng sinh đến môi trường khu vực và cộng đồng dân cư lân cận.Việc tổ chức thu gom và xử lý khí thải là thuộc trách nhiệm của từng dự án đầu tư trong khu công nghiệp. Ô nhiễm khí thải từ các nhà máy trong khu công nghiệp chủ yếu tập trung tại các nhà máy sản xuất phân bón, sản xuất thép và sản xuất vật liệu xây dựng. Theo kết quả quan trắc định kỳ do Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường thực hiện, chất lượng môi trường không khí tại các khu công nghiệp hiện nay còn ở trạng thái sạch, ngoại trừ thông số bụi tại một số vị trí vượt tiêu chuẩn cho phép do quá trình xây dựng hạ tầng. Diện tích cây xanh trong khu công nghiệp : theo nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường các khu công nghiệp phải quan tâm đến diện tích cây xanh trong khu công nghiệp để đảm bảo cân bằng yếu tố vi khí hậu trong khu công nghiệp, diện tích cây xanh phải đảm bảo đạt tối thiểu 15% diện tích đất của khu công nghiệp. Qua các đợt thanh tra về môi trường do Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì thực hiện, diện tích cây xanh trong hầu hết các khu công nghiệp chưa đảm bảo. Thực hiện chương trình giám sát môi trường : tất cả các chủ đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp đều không thực hiện chương trình giám sát môi trường hằng năm theo quy định. Do đó, không xác định được diễn biến chất lượng môi trường xung quanh và không có cơ sở để hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường cho cả khu công nghiệp khi đã được lấp đầy. Khoảng 30% các doanh nghiệp đầu tư trong khu công nghiệp thực hiện chương trình giám sát môi trường hằng năm và tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp thực hiện tốt các nội dung cam kết trong bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được phê duyệt. Luật bảo vệ môi trường còn bất cập. Hiện còn thiếu nhiều hệ thống thống nhất quản lý về môi trường, do vậy mỗi khu công nghiệp tổ chức quản lý môi trường theo một cách khác nhau. Việc phân cấp quản lý chưa rõ ràng dẫn đến việc né tránh và đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý. Các cán bộ của cơ quan quản lý môi trường địa phương (các sở khoa học, công nghệ và môi trường và ban quản lý khu công nghiệp) không thể có mặt hường xuyên tại từng nhà máy để giám sát việc thực thi các cam kết trong đánh giá tác động môi trường hoặc kiểm soát từng nguồn ô nhiễm. Họ không có đủ phương tiện và trang thiết bị để thực hiện việc giám sát ở tất cả các nhà máy trong khu công nghiệp, thiếu cán bộ quản lý môi trường trong khu công nghiệp. Các cán bộ Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường chỉ có thể đáp ứng phần nào việc quản lý các vấn đề môi trường bên ngoài hàng rào khu công nghiệp. Các vấn đề môi trường bên trong chỉ có thể được quản lý tốt bởi chính các bộ phần chức năng quản lý môi trường của từng khu công nghiệp. Việc xử phạt các trường hợp vi phạm luật bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo, mức phạt còn quá thấp chưa đủ sức để buộc các đối tượng vi phạm nỗ lực thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hoặc thay đổi hành vi gây ô nhiễm.Bản thân hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung (như Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp quy về quản lý môi trường khu công nghiệp) đã bộc lộ nhiều hạn chế khi áp dụng.Một số văn bản quy phạm đã được ban hành trước đây có nhiều nội dung lỗi thời, không phù hợp hoặc không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, ý thức bảo vệ môi trường của một số chủ đầu tư xây dựng hạ tầng KCN và nhà đầu tư vào các KCN còn rất hạn chế. Sự mâu thuẫn lợi ích – chi phí khi xây dựng hệ thống xử lý chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ trợ thỏa đáng từ phía Nhà nước đã khiến cho các nhà đầu tư chậm triển khai việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho KCN. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong KCN cũng chưa hoàn chỉnh. II. Giải pháp cho các khu công nghiệp 1. Hệ thống pháp lý Một trong những công cụ quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng môi trường tại các khu công nghiệp đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép là tăng cường công cụ pháp lý. Do đó, theo quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 2005 trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường phối hợp với Ban quản lý các khu công nghiệp, huyện Tân Thành và thành phố Vũng Tàu thực hiện các nhiệm vụ sau: Yêu cầu tất cả các chủ đầu tư các khu công nghiệp phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, xây dựng khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại theo đúng quy định của Luật trong khoảng thời gian nhất định. Yêu cầu tất cả các dự án đầu tư trong khu công nghiệp có nước thải phải xử lý cục bộ đạt tiêu chuẩn đầu vào của hệ thống xử lý nước thải tập trung trước khi thải vào hệ thống thu gom nước thải của khu công nghiệp. Các doanh nghiệp có khí thải vượt tiêu chuẩn cho phép phải có hệ thống xử lý đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam trước khi thải. Tất cả các doanh nghiệp có chất thải nguy hại phải có hợp đồng thuê các đơn vị có chức năng và đủ năng lực để xử lý. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để xử lý các doanh nghiệp không thực hiện theo đúng các cam kết về bảo vệ môi trường trong báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cương quyết tạm đình chỉ hoạt động nếu doanh nghiệp để tình trạng ô nhiễm kéo dài. Cần thiết nên có quy định pháp lý về kiểm soát môi trường KCN để làm căn cứ đánh giá hiệu quả của việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Việc thành lập mới các KCN phải mang tính chất chọn lọc, phải đầu tư đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng hiện có và đảm bảo 100% các KCN đi vào hoạt động có các công trình xử lý nước thải và diện tích cây xanh hợp lý. Việc phân cấp quản lý môi trường KCN phải được thực hiện hợp lý. Đối với các địa phương, cần phát triển năng lực quản lý môi trường KCN trong các vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường (trong các khu công nghiệp, khu chế xuất), thì trên cơ sở luật bảo vệ môi trường, cần sớm ban hành đồng bộ khung pháp ký về bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thể chế hoá các chủ trương, chính sách, chế độ, quy định rõ các đầu mối trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh về phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Sở KHCN&MT chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương về công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN, đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ KHCN&MT về chuyên môn, nghiệp vụ, chính sách vĩ mô thực hiện nội dung công tác quản lý về bảo vệ môi trường KCN; Tổ chức việc xem xét cấp Phiếu xác nhận Bảng đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư vào KCN theo phân cấp thẩm định tại Nghị định 175 CP của Chính phủ và những quy định tại thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT của Bộ KHCN&MT; Giám sát việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường của Công ty phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp KCN trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và trong suốt giai đoạn hoạt động của KCN; Tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường KCN trong phạm vi quyền hạn được giao hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý... Quy chế cũng đã khẳng định nếu Công ty phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp KCN vi phạm quy chế bảo vệ môi trường KCN sẽ bị xử phạt hành chính về bảo vệ môi trường theo Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam. Công ty phát triển hạ tầng KCN, các doanh nghiệp KCN cố tình gây cản trở công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra môi trường sẽ bị lập biên bản trình lên UBND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương hoặc/và Bộ KHCN&MT để có quyết định xử lý. 2. Tăng cường công cụ kinh tế Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng những công cụ kinh tế khác nhau(các loại phí, giấy phép có thể bán được, hệ thống kỹ quỹ và hoàn trả, khuyến khích thực thi, các chính sách thuế môi trường và tài nguyên, quy định đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường…)nhằm đem lại sự mềm dẻo, hiệu quả, chi phí – hiệu quả cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Phần lớn các công cụ này đã kích thích những người gây ô nhiễm có khả năng hoàn thành các mục tiêu môi trường bằng những phương tiện có hiệu quả, chi phí – hiệu quả nhất. Với những mức độ khác nhau, chúng sử dụng những nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” và “người hưởng lợi phải trả”. Theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, thì ở mức ô nhiễm cao sẽ chịu phạt về tài chính cao hơn, còn ở mức ô nhiễm thấp hơn thì chịu phạt thấp hơn, hoặc thậm chí còn được thưởng nữa. Theo nguyên tắc người hưởng lợi phải trả thì người sử dụng phải trả toàn bộ chi phí xã hội cho sự cung cấp nguồn lực đó. Trong khi một số công cụ kinh tế ứng dụng các chi phí trực tiếp(ví dụ: phạt dựa trên khối lượng chất độc thải ra, hệ thống trả phí theo từng thứ chất thải rắn, phí cho phép thải khí tính theo khối lượng khí thải ra, tiền kí quĩ có thể được hoàn trả cho các bao bì), các công cụ khác lại sử dụng các chi phí gián tiếp như thuế đánh vào đầu ra(ví dụ: thuế nhiên liệu). Phương pháp kinh tế có một số ưu điểm sau: Khuyến khích sử dụng các biện pháp chi phí – hiệu quả để đạt được các mức độ ô nhiễm có thể chấp nhận được. Kích thích sự phát triển công nghệ và tri thức chuyên sâu về kiểm soát ô nhiễm, trong khu vực tư nhân. Cung cấp cho Chính phủ một nguồn thu nhập để hỗ trợ cho các chương trình kiểm soát ô nhiễm. Cung cấp tính linh động trong các công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Loại bỏ được yêu cầu của Chính phủ về một lượng lớn thông tin chi tiết cần thiết để xác định mức độ kiểm soát khả thi và thích hợp đối với mỗi nhà máy và sản phẩm. Xác định mức mức phí môi trường tương ứng với lượng chất thải của các khu công nghiệp. Biện pháp này rất hiệu quả, nó sẽ khuyến khích các cơ sở sản xuất giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn, kích thích các cơ sở sản xuất đầu tư vào công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới. Tuy nhiên một trong những trở ngại lớn nhất là phản ứng của các doanh nghiệp. Áp dụng biện pháp kỹ quỹ - hoàn trả đối với những sản phẩm có nhiều khả năng gây ô nhiễm. Khi các doanh nghiệp sử dụng những sản phẩm ấy, trả bao bì và các phế thải của chúng cho một Trung tâm được phép để tái chế hoặc để thải bỏ, thì khoản tiền ký quỹ của họ sẽ được hoàn trả lại à biện pháp này tăng cường việc thu gom các chất thải nguy hại nhằm hạn chế khả năng gây ô nhiễm môi trường. Các khoản trợ cấp bao gồm các khoản tiền trợ cấp, các khoản vay với lãi suất thấp, khuyến khích về thuế, để khuyến khích những doanh nghiệp thay đổi hành vi, hoặc giảm bớt chi phí trong việc giảm ô nhiễm mà những người gây ô nhiễm phải chịu. Ví dụ: chính phủ trợ cấp cho công nghiệp chủ yếu để giúp tài trợ cho việc mua các thiết bị làm giảm ô nhiễm, hoặc để trợ cấp cho việc đào tạo cán bộ. Trong một số nước, người ta trợ cấp cho chính quyền địa phương tiến hành các chương trình nghiên cứu và triển khai công nghệ, hoặc để trợ giúp cho việc áp dụng những kỹ thuật mới mà luật pháp và các quy định yêu cầu. Trợ cấp cũng được áp dụng để kiểm soát ô nhiễm, tái chế để sử dụng lại và để khôi phục nguồn lực. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là công cụ kinh tế hiệu quả nhằm ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường phối hợp với các ngành, đặc biệt là: Sở Tài Chính, Ban quản lý các khu công nghiệp và Cục thuế tỉnh tổ chức giám định toàn bộ nước thải của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ngay sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường có thông tư hướng dẫn xác định lưu lượng nước thải công nghiệp và công bố các đơn vị có năng lực giám định mẫu nước thải phục vụ công tác thu phí để tăng nguồn thu cho ngân sách đầu tư xử lý môi trường và khuyến khích c
Luận văn liên quan