Thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nền sản
xuất trong nước, trong những năm qua Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với
hơn 200 quôc gia trên thế giới, tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế
như Asean, AFTA, WTO nhưng sự tham gia này vẫn dừng ở phạm vi nhỏ, hẹp cả
về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng.Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế
quốc tế.Bởi vậy nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII, IX và X đều khẳng định phải
‘’ đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới’’, với quy mô rộng hơn
và trình độ cao hơn.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thế
đứng mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công
bằng. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất
nước. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất
nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh môt vài những lợi thế mà ta có được như nguồn lao động, tài
nguyên. thì là muôn vàn những khó khăn : xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp,
đang trong quá trình chuyển đổi, nền kinh tế thị trường còn ở giai đoạn sơ khai, các
yếu tố cơ bản, đồng bộ của một thị trường chưa phát triển đầy đủ. Điều đó dẫn đến
khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém.Thị trường thế giới để hang hoá nước ta
xâm nhập còn hạn hẹp do những yêu cầu gắt gao.Trong bối cảnh tự do buôn bán, tự
do đầu tư, chúng ta đang ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hang hoá cho
nước ngoài. Do đó chính phủ, bộ ngành mà trực tiếp là các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong nước cần có những biện pháp cải thiện tình hình cả trước mắt và
lâu dài nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hoá nước
ngoài và tìm kiếm thị trường bên ngoài đẩy mạnh xuất khẩu hang hoá.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1918 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Giải pháp của các bộ ban ngành nhà
nước về xuất khẩu thuỷ hải sản
A) Phần mở đầu
I) Giới thiệu sơ qua về đề tài nghiên cứu và tình hình xuất khẩu ở Việt
nam
Thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nền sản
xuất trong nước, trong những năm qua Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với
hơn 200 quôc gia trên thế giới, tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế
như Asean, AFTA, WTO …nhưng sự tham gia này vẫn dừng ở phạm vi nhỏ, hẹp cả
về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng.Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế
quốc tế.Bởi vậy nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII, IX và X đều khẳng định phải
‘’ đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới’’, với quy mô rộng hơn
và trình độ cao hơn.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thế
đứng mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công
bằng. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất
nước. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất
nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh môt vài những lợi thế mà ta có được như nguồn lao động, tài
nguyên.. thì là muôn vàn những khó khăn : xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp,
đang trong quá trình chuyển đổi, nền kinh tế thị trường còn ở giai đoạn sơ khai, các
yếu tố cơ bản, đồng bộ của một thị trường chưa phát triển đầy đủ. Điều đó dẫn đến
khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém.Thị trường thế giới để hang hoá nước ta
xâm nhập còn hạn hẹp do những yêu cầu gắt gao.Trong bối cảnh tự do buôn bán, tự
do đầu tư, chúng ta đang ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hang hoá cho
nước ngoài. Do đó chính phủ, bộ ngành mà trực tiếp là các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong nước cần có những biện pháp cải thiện tình hình cả trước mắt và
lâu dài nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hoá nước
ngoài và tìm kiếm thị trường bên ngoài đẩy mạnh xuất khẩu hang hoá.
Thực tế sau hơn 20 năm chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ
chế thị trường mở cửa hội nhập, chỉ tiêu xác định mức độ mở cửa hội nhập là giá trị
xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ đã có những bước tiến rõ nét. Cụ thể tổng mức lưu
chuyển hang hoá xuất nhập khẩu bình quân từ 1986 đến 2005 là 20,7 tỷ USD/ năm (
gấp 7 lần năm 1985).Tốc độ tăng trưởng của các thời kì rất cao, thời kì từ 1996 đến
2000 tăng gấp gần 3 lần 5 năm trước đó và đạt trên 100 tỷ USD ( tốc độ tăng bình
quân mỗi năm là 17,2%), thời kì 2001-2005 tăng hơn 2 lần giai đoạn trước, đạt 241
tỷ USD( tốc độ tăng mỗi năm là 18,2%).Trong đó khu vực kinh tế trong nước giai
đoạn đầu 1986-1990 có vai trò chủ đạo chiếm tới 96,6% tong giá trị xuất nhập
khẩu.Tính từ 1986-2005, tốc độ tăng của xuất khẩu là 21,2% mỗi năm, kim ngạch
xuất khẩu tăng gần 40 lần từ 789 triệu USD năm 1986 lên 32,4 tỷ USD năm 2005,
tỷ trọng xuất khẩu so với tổng mức lưu chuyển tăng dần từ 35,7%(giai đoạn 1986-
1990) lên 46%(giai đoạn 2001-2005).
Do tốc độ tăng trưởng ở mỗi thời kì của xuất khẩu và nhập khẩu có sự ngược
nhau về xu hướng nên ảnh hưởng đến cân đối thương mại. Giai đoạn 1986-1995
mức nhập siêu khoảng 5,6 tỷ USD.Từ 1996 đến 2000 mức nhập siêu tăng gấp gần 2
lần lên 9,8 tỷ USD.Giai đoạn 2001-2005 là 19,3 tỷ USD.Tuy nhiên tỷ lệ nhập siêu
qua từng giai đoạn so với xuất khẩu giảm mạnh từ 80,4% trong giai đoạn 1986-
1990 xuống 17,4% giai đoạn 2001-2005.
Cùng với sự tăng trưởng về quy mô, các đơn vị tham gia xuất nhập khẩu cũng
tăng lên nhanh chóng.Trước năm 1989 hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu do một số
đơn vị chuyên doanh ngoại thương của nhà nước thực hiện, nhưng đến nay tất cả
các loại hình doanh nghiệp đều tham gia xuất nhập khẩu.Tỷ trọng xuất khẩu của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lien tục tăng qua các giai đoạn, giai đoạn 1991-
1995 chiếm 17,1%, giai đoạn 1996-2000 chiếm 31,5%, giai đoạn 2001-2005 chiếm
42,8%.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội và nguy cơ đòi hỏi các doanh
nghiệp xuất khẩu phải nắm chắc tình hình, đưa ra những dự báo, xây dựng kế
hoạch, chiến lược mở rộng thị trường, đẩy mạnh và nâng cao giá trị xuất khẩu nhằm
đóng góp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước .
B) Nội dung nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận về vấn đề xuất khẩu
1.1) Lý do nghiên cứu về xuất khẩu
Nghị quyết đại hội Đảng đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách vĩ mô nhằm
đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, tạo tiền đề cho phát triển, đưa nền kinh tế sớm đạt
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở cửa hội
nhập như nước ta.Việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài là vấn
đề sống còn với một nền kinh tế nhỏ yếu bước vào hội nhập với sự cạnh tranh gay
gắt như nước ta.
Không những đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu còn
tạo ra những thay đổi quan trọng với nền sản xuất trong nước.
Xuất khẩu giữ một vị trí quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế,
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay thì vấn đề xuất khẩu
được chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt quan tâm.
Hiện nay giá trị các mặt hàng xuất khẩu của nước ta và thị trường nước ngoài
còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có cả về số lượng, chất lượng và chủng loại
mặt hàng.Do vậy cần đặt ra ở đây như một vấn đề mang tính chiến lược đối với nền
kinh tế.
Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu trong nước cho ta thấy được những mặt
mạnh, những mặt hạn chế của các doanh nghiệp xuất khẩu từ đó đề ra những
phương hướng, giải pháp phát huy điểm mạnh, khắc phục hạn chế nhằm nâng cao
giá trị xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng
1.2) Vai trò của xuất khẩu với sự phát triển kinh tế
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia
trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế.Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ,
sự chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc làm cho hang hoá được sản xuất ra
ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, số lượng, chất lượng.Việc tiêu thụ
hang hoá được sản xuất ra không chỉ giới hạn tiêu thụ trong phạm vi trong nước mà
được mở rộng ra thị trường quốc tế.Hoạt động xuất khẩu giúp mở rộng thị trường
tiêu thụ cho hàng hoá được sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của các quốc gia làm thúc đẩy cạnh
tranh, cải tiến khoa học công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đóng góp
tích cực cho mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc, hoạt động xuất
khẩu đang chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP
Xuất khẩu càng phát triển, càng được mở rộng thì càng thúc đẩy nền sản xuất
trong nước phát triển theo, giúp giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ phận lớn dân
số trong nước.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Để phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy
móc thiết bị, công nghệ hiện đại.Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu được thu về từ các
hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.Xuất khẩu góp phần tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển.
1.21) hoạt động xuất khẩu trước năm 1986
Giai đoạn trước 1986, cơ chế kinh tế Việt Nam là cơ chế tập trung, bao
cấp.không có khái niệm mở cửa hội nhập, chỉ hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa. Sản xuất chỉ nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu trong nước.
Trong giai đoạn này,hoạt động xuất khẩu nhỏ lẻ, chủ yếu là xuất một số mặt
hang nông sản thô sang các nước xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế chủ yếu là phải nhập
khẩu các mặt hang quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng trong nước kể cả những
loại hang hoá mà trong nước có thể sản xuất được như gạo,vải mặc..
1.22) hoạt động xuất khẩu sau năm 1986
Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, công tác hành chính,
từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Công cuộc đổi mới năm 1986 đánh dấu bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và một loạt những thay đổi quan
điểm về tư duy, đường lối phát triển đất nước.Từ đây Việt Nam đã thực hiện chủ
trương mở cửa hội nhập kinh tế với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ, chú trọng
đến hoạt động xuất nhập khẩu, xem nó như một hoạt động giữ vai trò và vị trí quan
trọng trong công cuộc phát triển đất nước
Giá trị xuất khẩu không ngừng gia tăng giữa các giai đoạn, đóng góp tích cực
cho sự phát triển kinh tế trong các thời kì
Số liệu về mức lưu chuyển ngoại thương bình quân và tốc độ tăng bình quân
năm trong mỗi thời kì kế hoạch 5 năm từ năm 1986 đến 2005 như sau: (đơn vị tính
triệu USD):
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tổng mức 19717 39940 113440 240981
Chỉ số tăng 5 năm% 115.1 123.4 117.9 118.5
Tăng bình quân% 15.1 21.4 17.2 18.2
Xuất khẩu 7032 17156 51825 110830
Chỉ số tăng 5 năm% 130.7 119.3 122.1 117.9
Tăng bình quân% 28.0 17.8 21.6 17.5
Lấy ví dụ về tốc độ tăng trưởng GDP trong các giai đoạn từ 1986 đến 2005 khi hội nhập
kinh tế quốc tế và có sự đóng góp của xuất khẩu:
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP
Biểu đồ: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.Một
số giai đoạn tiêu biểu về sự phát triển kinh tế Việt Nam sau đổi mới:
+ Giai đoạn 1986-1990, GDP tăng 4,4%/năm, phục hồi sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát, đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức sản
xuất.
+ Giai đoạn 1991-1995, khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao liên tục và tương đối toàn diện.Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) bình quân hàng năm trong thời kỳ 1991-1995 tăng 8,2%.
+Giai đoạn 1996-2000, đây là thời kỳ quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã gặp phải một
số khó khăn bên ngoài mà điển hình nhất là cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế khu
vực (giữa năm 1997 đến năm 1999); Và khó khăn bên trong là thiên tai nghiêm
trọng liên tiếp gây ra những tác động tiêu cực, đặt nền kinh tế đất nước trước những
thử thách quyết liệt. Mặc dù vậy tổng sẩn phẩm trong nước vẫn duy trì được nhịp độ
tăng trưởng khoảng GDP 6%/năm.
+Giai đoạn 2001-2005, kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh, năm sau cao hơn năm
trước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7,5%/năm, trong đó nông
nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; dịch vụ tăng 7%. Qui mô
tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỷ đồng, gấp đôi
so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (khoảng 640
USD).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước từ 1986-2005
Tốc độ tăng tổng sản phẩm 1986-
1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
Trong nước 4,4 8,2 7,0 7,5
Cụ thể:
- Nông, lâm nghiệp và thủy
sản
4,1 4,42 3,8
- Công nghiệp và xây dựng 12,0 10,6 10,2
- Dịch vụ 8,6 5,69 7,0
Hoạt động xuất khẩu đã làm cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng
ngành, từng vùng làm tăng hiệu quả và chất lượng phát triển.
Bảng 3: Cơ cấu các ngành kinh tế trong giai đoạn từ 1986-2005
Năm Tỷ trọng nông, lâm
nghiệp và thủy sản
trong GDP (%)
Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng
trong GDP (%)
Tỷ trọng dịch vụ
trong GDP (%)
1986 38,1 28,9 33
1990 38,7 22,7 38,6
2000 27,2 28,8 44,0
2005 20,9 41 38,01
Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm
tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức
khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004
và 32,23 tỉ USD năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ
36,3% USD năm 1990 lên 166 USD năm 2000 và khoảng 390 USD năm 2005.
Biểu 4 : Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 1986-
2005
Từ biểu đồ trên ta thấy tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta không ngừng
tăng trong các giai đoạn từ 1986 đến 2005 và giai đoạn sau cao hơn nhiều so với
giai đoạn trước đó.Giai đoạn đầu sau đổi mới, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt
7.03 tỷ USD, sau đó tăng lên hơn 2 lần trong giai đoạn 1991-1995 và giai đoạn
2001-2005 tăng gấp hơn 15 lần so với giai đoạn 1986-1990
Hoạt động xuất khẩu trong hơn 20 năm đổi mới đã đóng góp quan trọng vào
tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.Với mục tiêu phát triển xuất
khẩu cao làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, tỷ trọng xuất khẩu chiếm trong
GDP và xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăng thể hiện qua các thời kì
1986-2005
1986-1990 1991-2000 1996 - 2000 2001 -2005
xuất khẩu bình
quân(triệu USD) 1406 3431 10365 22166
tỷ trọng xuất khẩu so
với GDP(%) 20.5 25.2 37.4 54.0
xuất khẩuBQ/người$ 18.1 43.6 129.9 274.0
Giai đoạn 2006-2008:
năm 2006 2007 2008
Giá trị xuất
khẩu(tỷUSD)
39.6 48.4 62.9
Nhờ thực hiện đường lối mở cửa thu hút đầu tư,trong hơn 20 năm đổi mới
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội.Trong đó
không thể không kể đến sự đóng góp của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
và các thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.Tỷ trọng xuất khẩu của
các thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
không ngừng tăng và giữ vai trò trọng yếu trong tổng thu ngân sách nhà nước.
1.23 Hoạt động xuất khẩu với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội
của nhà nước ta
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước là:
Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,phát triển sản xuất trong nước, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản ; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao.Trong 10 năm , từ năm 1991 đ ến 2000, xuất nhập khẩu đã đạt được nhiều
thành tựu lớn đóng góp tích cực vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội .Xuất khẩu
đang là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế góp phần quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong những giai đoạn tiếp theo, chính phủ tiếp tục có những chính sách nhằm
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất
khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để
xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhanh chóng rút ngắn khoảng
cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực.
1.3) Về tài nguyên thuỷ hải sản ở nước ta
Nước ta có đường bờ biển dài 3.2 nghìn km (bằng6/7 biên giới lục địa) với
gần 1 triệu km2 thềm lục địa với hàng nghìn đảo và quần đảo.Nhiệt độ vùng biển
tương đối ấm và ổn định quanh năm thích hợp cho sự sinh trưởng của các loài thuỷ
sản nước mặn, nước lợ.
Biển Việt nam có trữ lượng cá lớn và đặc sản biển phong phú: hang chục vạn ha
diện tích mặt nước trên đất liền( bao gồm 40 vạn ha hồ lớn, 54 vạn ha vùng ngập
nước, 5.7 vạn ha ao và 44 vạn km sôngvà kênh rạch) có thể nuôi tôm, cá và các loại
thuỷ sản khác.Do đó, ngành nuôi thuỷ sản nước ta, kể cả thuỷ sản nước mặn, nước
lợ, nước ngọt, có thể trở thành ngành sản xuất chính.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác,
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm
hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý
nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn
tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 á 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế
như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào
ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v... có giá
trị xuất khẩu cao được ưa chuộng trên thị trường quốc tế.
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta
có thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Chế
độ gió mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân
bố của cá cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ. Tỷ lệ đàn cá
nhỏ có kích thước dưới 5 x 20m chiếm tới 82% số đàn cá, các đàn vừa (10 x 20m)
chiếm 15%, các đàn lớn (20 x 50m trở lên) chỉ chiếm 0,7% và các đàn rất lớn (20 x
500m) chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái vùng gần
bờ chiếm 68%, các đàn mang tính đại dương chỉ chiếm 32%.
Tài nguyên thuỷ hải sản nước ta là vô cùng phong phú, đóng góp tích cực
cho xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu thuỷ hải sản nước ta là một trong những hoạt
động xuất khẩu chiến lược đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP hang năm của
nước ta.
Chương II:Phân tích thực tế tình hình xuất khẩu thuỷ hải sản ở nước ta
2.1) Nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ hải sản
Bảng 5. Tổng hợp kết quả đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá biển
Việt Nam
Vùng
biển
Loại cá
Ðộ
sâu
Trữ lượng Khả năng khai thác
(tấn)
Tỷ lệ
trong toàn
bộ biển
Việt Nam
(%)
Tấn Tỷ lệ
(%)
Tấn Tỷ lệ (%)
Vịnh
Bắc Bộ
Cá nổi
nhỏ
390.000 57,3 156.000 57,3
16,3
Cá đáy <
50m
39.200 5,7 15.700 5,7
>
50m
252.000 37 100.800 37
Cộng 681.200 272.500
Miền
Trung
Cá nổi
nhỏ
500.000 82,5 200.000 82,5
14,5
Cá đáy <
50m
18.500 3,0 7.400 3,0
>
50m
87.900 14,5 35.200 14,5
Cộng 606.400 242.600
Ðông
Nam
Bộ
Cá nổi
nhỏ
524.000 25,2 209.600 25,2
49,7
Cá đáy <
50m
349.200 16,8 139.800 16,8
>
50m
1.202.700 58,0 481.100 58,0
Cộng 2.075.900 830.400
Tây
Nam
Bộ
Cá nổi
nhỏ
316.000 62,0 126.000 62,0
12,1
Cá đáy <
50m
190.700 38,0 76.300 38,0
Cộng 506.700 202.300
Gò nổi Cá nổi
nhỏ
10.000 100 2.500 100 0,2
Toàn
vùng
biển
Cá nổi
đại
dương
(*)
(300.000) (120.000) 7,2
Tổng
cộng
Cá nổi
nhỏ
1.740.000 694.100
Cá đáy 2.140.000 855.900
Cá nổi
đại
dương
(*)
(300.000) (120.000)
Toàn bộ 4.180.000 1.700.000 100
(*) Số liệu suy đoán theo sản lượng đánh bắt của các nước quanh biển Ðông
Bảng 6. Trữ lượng và khả năng khai thác tôm vỗ ở vùng biển Việt Nam
Vùng
biển
200m Tổng cộng
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn,
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Vịnh
Bắc Bộ
318 116 114 42 430 158
Miền
Trung
7 3 2.462 899 13.482 4.488 34 12 15.985 5.402
Ðông
Nam Bộ
8.160 2.475 2.539 927 6.092 2.224 1.852 676 18.641 6.300
Tây
Nam Bộ
9.180 3.351 166 61 9.346 3.412
Cộng 17.664 5.945 5.281 1.929 19.574 6.712 1.886 688 44.402 15.272
Bảng 7. Trữ lượng và khả năng khai thác mực nang ở vùng biển Việt Nam
Khu vực
Trữ lượng
và KN
Khai thác
(tấn)
< 50m
50 -
100m
100 -
200m
> 200m
Tổng
cộng
Vịnh Bắc
Bộ
Trữ lượng 1.500 400 1.900
Cho