Hồ Chí Minh đã đánh giá rát cao về dân chủ và thực hành dân chủ. Người cho
rằng “Dân chủ là quý báu nhất”, “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để có thể giải
quyết mọi khó khăn”. Hơn nữa Người còn khẳng định “Nước ta là nước dân chủ địa vị
cao nhất là nhân dân nếu dân làm chủ”
Từ khi chính quyền thuộc về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ ngày một thêm gắn bó. Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân
dân, đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cách
mạng nước ta đã liên tục đạt được những thành quả to lớn trên mọi lĩnh vực, trong công
cuộc đổi mới toàn diện hiện nay. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tạo ra sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào sự thành công
của cách mạng.
29 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 12878 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ Ban Quản lý chợ Long Xuyên đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hồ Chí Minh đã đánh giá rát cao về dân chủ và thực hành dân chủ. Người cho
rằng “Dân chủ là quý báu nhất”, “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để có thể giải
quyết mọi khó khăn”. Hơn nữa Người còn khẳng định “Nước ta là nước dân chủ địa vị
cao nhất là nhân dân nếu dân làm chủ”
Từ khi chính quyền thuộc về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ ngày một thêm gắn bó. Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân
dân, đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cách
mạng nước ta đã liên tục đạt được những thành quả to lớn trên mọi lĩnh vực, trong công
cuộc đổi mới toàn diện hiện nay. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tạo ra sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào sự thành công
của cách mạng. Quyền làm chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội đã được
ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa các văn bản pháp luật của Nhà nước,
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tăng cường đại đoàn
kết của toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền vá
các tổ chức đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt chế độ dân chủ trực
tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng,
thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta,
phù hợp với yêu cầu bức thiết của cuộc sống hiện nay. Để thực hiện tốt quy chế dân chủ
ở cơ sở, các cấp, các ngành cần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, có hiệu
lực, có hiệu quả, khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, thiếu trách nhiệm, thiếu gương mẫu,
mất dân chủ trong giải quyết các công việc. Với yêu cầu đó, trong thời gian qua, hệ thống
chính trị ở cơ sở đã tích cực thực hiện quy chế dân chủ, đã có nhiều chuyển biến rõ rệt,
trong đó có cơ quan tôi trong thời gian qua tương đối tốt nhưng việc thực hiện còn chưa
hoàn hảo, cần phát huy tốt trong thời gian tới..
Xuất phát từ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện địa hóa nông thôn, Do đó tôi chọn
2
đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ Ban Quản lý chợ Long
Xuyên đến năm 2015”.
2. Giới hạn của tiểu luận:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng chất lượng, hiệu quả việc thực hiện quy chế
dân chủ ờ Ban Quản lý chợ Long Xuyên trong những năm qua, đề xuất mục tiêu, giải
pháp từ nay đến năm 2015..
3. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về dân chủ và dân chủ cơ sở
Chương 2: Thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Ban Quản lý chợ
Long Xuyên từ năm 2008 - 2013
Chương 3: Mục tiêu giải pháp nâng cao hiệu quả dân chủ của Ban Quản lý
chợ Long Xuyên từ nay đến 2015.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiểu luận vận dụng những phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa Mac –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản, nghị định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra tiểu luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê, đồng thời sử dụng số liệu của một số báo cáo có liên quan đến đề tài.
3
CHƢƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ
1.1. Những lý luận chung về dân chủ
1.1.1 Một số khái niệm
Xuất phát từ Hy Lạp cổ đại là “Demokratia”, trong đó “Demos” là nhân dân,
“kratia” là chính quyền hay quyền lực. Như vậy theo nguyên nghĩa của nó, dân chủ có
nghĩa là quyền lực nhân dân, nó nói nên rằng nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Dân chủ là sự phản ảnh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình
phát triển của xã hội. Nó thể hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, được quy định
trong pháp luật Nhà nước cũng như được thể hiện trong cuộc sống. Ở phương diện này,
dân chủ thể hiện thực chất quan hệ giữa người và người được duy trì theo quan niệm và
nguyên tắc bình đẳng. Ở đây dân chủ là một giá trị nhân văn, đánh dấu những mức độ của
việc giải phóng con người trên tiến trình phát triển của xã hội
Dân chủ là sự biểu thị thành quả của cuộc đấu tranh giữa một bên là những người
lao động và một bên là giai cấp bốc lột. Vì vậy dân chủ không chỉ đơn thuần là quyền
lực, lợi ích thuộc về giai cấp cầm quyền, mà nó còn là phần quyền lực, lợi ích của đông
đảo nhân dân, do chính họ giành được trong cuộc đấu tranh. Ở đây, dân chủ là một tương
quan xã hội, phản ánh so sánh giữa các lực lượng, các khuynh hướng xã hội.
Dân chủ còn được hiểu với tính cách là nguyên tắc, phương thức hoạt động của
một tổ chức chính trị xã hội. Ví dụ: nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng và
quản lý Nhà nước.
Đó là các khía cạnh khác nhau của khái niệm dân chủ, tùy bối cảnh người ta nhấn
mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác.
Trải qua các chế độ xã hội từ Cộng sản nguyên thủy, Nhà nước chủ nô đến Nhà
nước phong kiến thì các giai cấp bốc lột đã biến Nhà nước thành công cụ thực hiện quyền
chính trị của mình vì lợi ích của giai cấp mình.
Sau hàng ngàn năm bị mất quyền và các quyền tự do dân chủ bị bốc lột tàn nhẫn
về kinh tế, bị cấm đoán về các hành động chính trị, tư tưởng; con người đã được giải
phóng và được qui định những quyền tự do, dân chủ nhất định là do sự ra đời của nền dân
chủ tư sản là một bước phát triển tiến bộ của lịch sử. Nhưng bản chất của nền dân chủ tư
sản vẫn là nền dân chủ tư sàn bảo đảm cho địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đã chỉ ra tính tất yếu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bản chất của vấn đề
4
là dân chủ - với tất cả các chế độ dân chủ đã từng tồn tại chỉ có dân chủ xã hội chủ nghĩa
là chế độ dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuy nhiên, dù là đỉnh cao
của dân chủ thì dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị Nhà nước mang bản chất giai
cấp công nhân.
1.1.2. Khái niệm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp:
- Dân chủ trực tiếp: là hình thức dân tham gia trực tiếp bày tỏ chính kiến nguyện
vọng của mình về những vấn đề mà cộng đồng quan tâm. Hình thức dân chủ này biểu
hiện phong phú ở cơ sở, cơ quan đơn vị,
- Dân chủ gián tiếp: là hình thức mà dân bầu, cử người đại diện của mình vào các
cơ quan chính quyền các cấp thông qua người đại diện của mình bày tỏ nguyện vọng
chính kiến về những vấn đề chung của quốc gia, của địa phương mình.
Ví dụ như: Bầu Đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp,
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về dân chủ
Nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, Cac-Mác người đầu tiên đặt
cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hội khoa học và sau đó cho toàn bộ phong trào công
nhân để chứng minh rằng “Toàn bộ lịch sử loài người từ khi phân chia thành giai cấp đến
nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Mác và Ăngghen chỉ rõ để đảm bảo cho cuộc đấu tranh
giai cấp vô sản thắng lợi phải đảm bảo 2 yếu tồ cơ bản đó là giai cấp vô sản phải thành
lập được chính đảng vô sản của mình và Đảng cộng sản phải làm công tác vận động quần
chúng để vận động đông đảo đa số quàn chúng tích cực tự nguyện tham gia cách mạng.
Người khẳng định quần chúng nhân dân chính là lực lượng quyết định lịch sử, quần
chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu của mọi cuộc cách mạnh xã hội, bởi lẽ các xã hội có
đối kháng giai cấp, chính cuộc đấu tranh của những người bị áp bức bốc lột chống lại giai
cấp bốc lột là động lực thúc đẩy các xã hội đó phát triển. Vì khi các cuộc đấu tranh đến
mức quyết liệt (cách mạng xã hội) sẽ làm sụp đổ chế độ xã hội cũ và chế độ xã hội mới
xuất hiện. Ăng ghen viết “Chính con người sáng tạo ra lịch sử của minh nhưng sáng tạo
ra trong một hoàn cảnh nhất định một hoàn cảnh nó chế ước lịch sử đó.
Như vậy, lấn đầu tiên chủ nghĩa Mác đã chứng minh một cách khoa học vai trò
của nhân dân là lực lượng quyết định và mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân
dân và cá nhân trong sự phát triển của xã hội. Đó là sự chuyển biến cách mạng trong
nhận thức về lịch sử đồng thời là căn cứ khoa học giúp cho các Đảng cộng sản và công
5
nhân chỉ đạo việc xây dựng cương lĩnh, quyết định chủ trương, biện pháp hoạt động thực
tiễn đi đúng hướng và đạt thắng lợi.
Phát triển tư tưởng của Mác – Ăng ghen trong thời đại của mình, Lê-nin cho rằng:
“Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên
phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng vô sản không thể thực hiện
được”. Lê-nin chỉ ra rằng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do đó
cách mạng vô sản phải giành lấy sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động”
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh đây là vấn đề có tính quy luật, là sự tương ứng giữa
nội dung và hình thức, giữa mục tiêu cách mạng và phương pháp cách mạng. Vận dụng
và phát triển tư tưởng của Mác – Ăng ghen chỉ đạo về công tác quần chúng. Lê – nin đã
đưa ra 5 luận điểm cơ bản:
Một là: quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp
của bảnh thân quần chúng, xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của quần chúng, do đó cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Hai là: muốn vận động quần chúng phải quan tâm đến lợi ích của bản thân họ. Lợi
ích là cái gắn bó người ta lại với nhau, lợi ích gắn liền với cuộc đấu tranh. Trong đó lợi
ích kinh tế là lợi ích thiết thân nhất của cá nhân, là động lực mạnh mẽ nhất.
Ba là: phải tập trung quyết định trong tổ chức do Đảng cộng sản lãnh đạo quần
chúng được tập hợp trong tổ chức sẽ tạo ra sức mạnh. Đảng phải biết cách làm công tác
tuyên truyền sao cho dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu nhất, rõ ràng nhất và sinh động nhất.
Bốn là: cách mạng phải đoàn kết “Vô sản các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại”
Năm là: về phương pháp vận động quần chúng: Lê – nin rất coi trọng công tác
thuyết phục giáo dục, rèn luyện nêu gương và mở rộng dân chủ, người đề ra nhiệm vụ
hàng đầu cho các Đảng cọng sản phải “Thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự
đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”, “Người cho rằng việc giáo dục và rèn
luyện quần chúng lao động là nhiệm vụ cơ bản của Đảng cộng sản”. Cán bộ đảng viên,
các tổ chức Đảng phải gương mẫu trước quần chúng nhân dân. Lê-nin coi công tác thuyết
phục giáo dục vận động quần chúng và mở rộng dân chủ là nhiệm vụ chiến lược cả trong
thời kỳ chưa có chính quyền và thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
6
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã nêu lên bản chất đặc trưng của chế độ dân chủ là giai
cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ, tuyệt đại đa số thành viên trong giai xã hội
được hưởng dân chủ. Là Nhà nước dân chủ do chính Đảng và giai cấp công nhân lãnh
đạo tổ chức, giai cấp công nhân và quảng đại quần chúng nhân dân tham gia quản lý và
giám sát, là nền dân chủ thực hiện công cuộc giải phóng lao động, xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
1.3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện dân chủ
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ, nên dân là chủ,
địa vị cao nhất là dân, do đó: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc là công việc của dân, chính quyền từ xã đến trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ
trung ương đến xã do dân đều do dân tổ chức lên” Người đánh giá rất cao về dân chủ là
của quý báu nhất. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả
các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội. Từ những chuyện nhỏ có liên quan
đến lợi ích của mỗi cá nhân, đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người
đứng đầu Nhà nước. Ngưởi dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là quyền được bảo vệ
thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập trong khuôn
khổ pháp luật cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm
chủ cơ quan nên mình sống và làm việc, người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các
tổ chức chính trị, thông qua bầu cử và bãi miễn. Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều ở
nơi dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân: Người giải thích dân là gốc của nước,
dân là người không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước, nước không có dân
thì không thành nước, nước do dân xây dựng lên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, vì
vậy dân là chủ đất nước. Thực tiễn trong quá trình thực hiện cách mạng do Đảng cộng
sản lãnh đạo, nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất, lực lượng của
Đảng là lớn mạnh được hay không là do nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là
người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, nhân dân là lực lượng biến chủ trương
đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy nên không có dân sự tồn tại của Đảng cũng
7
chẳng có ý nghĩa gì đối với chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng như vậy, lợi ích
của Đảng xuất phát từ lợi ích của nhân dân.
Chế độ dân chủ mà nhân dân xây dựng là chế độ dân chủ thực sự là của nhân dân
gắn liền với công bằng xã hội, xóa bỏ áp bức bốc lột Bác nói: “Cán bộ từ trên xuống dưới
làm đầy tờ cho nhân dân, phải xứng đáng là người công bộc trung thành của nhân dân”.
“tài dân, sức dân làm lợi cho dân”. Có như vậy mới động viên được đông đảo nhân dân,
tích cực tham gia thực hiện kế hoạch ở địa phương cơ sở mình. Khi thi hành xong phải
cùng với dân phải kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Dân
kiểm tra là một nội dung về quyền dân chủ, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước và các tổ chức đoàn thể nhân dân thực sự trong sạch vững mạnh, nhằm bảo vệ
lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, việc đấu tranh chống tham ô lãng phí, quan
liêu, cậy thế trái phép chỉ có thể thực hiện có hiệu quả nếu biết thực sự dựa vào sự
kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể chế bằng việc xây dựng thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở hiện nay là lĩnh vực đề tài tập trung nghiên cứu. Đặc biệt trong thời
điểm toàn Đảng, toàn dân đang dấy lên phong trào thi đua nghiên cứu học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh để thấm nhuần hệ thống quan điểm phương pháp cách mạng của Hồ Chí
Minh để kiên định mục tiêu lý tưởng, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân
dân. Vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Để phát huy
quyền dân chủ của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm đúng đắn, chủ
trương chính sách phù hợp với điều kiện của đất nước. Trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội an ninh quốc phòng nhất là ở địa bàn cơ sở để đảm bảo và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân nhất thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để làm cho
dân chủ đi đúng định hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ thực sự, dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương, lấy hiếp pháp và pháp luật làm cơ sở pháp lý.
1.4. Những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở
Dưới ánh sáng và quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ
chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương và chính sách đúng đắn nhằm
8
đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống, phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng của đất nước.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết TW
3 khóa VIII ngày 18/2/1998. Bộ chính trị ra Chỉ thị số 30/CT-TW về “xây dựng và thự
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Chỉ thị nhấn mạnh “Nhà nước cần ban hành quy chế dân
chủ ở cơ sở, có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm
chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường,
doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viên nghiên cứu và các cơ quan hành chính phù
hợp với từng cơ sở”.
Để ngày càng hoàn thiện những nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước năm 1998, Bộ chính trị khóa VIII có chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/2/1998 về
việc xây dựng và hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chỉ thị 30 của Bộ chính trị được triển khai ở cơ sở nhằm phát huy tốt hơn và nhiều
hơn quyền làm chủ của nhân dân đó vừa là mục đích, vừa là động lực cho sự phát triển.
Góp phần ngăn chặn tình trạnh suy thoái về đạo đức, tham nhũng quan liêu, cửa quyền,
sách nhiễu nhân dân trong bộ máy chính quyền các cấp, tạo điều kiện xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh, góp phần khắc phục tình trạng vừa mất dân chủ ở cơ sở
vừa dân chủ cực đoan tạo cho quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng, đưa quy chế
dân chủ trở thành nề nếp trong hoạt động của chính quyền các cấp. Quy chế dân chủ còn
góp phần khai thác phát huy trí tuệ và sức sáng tạo của nhân dân, tạo sức mạnh vật chất
tinh thần to lớn trong thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ và văn minh”. Thực chất là cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”
Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở cụ thể:
Một là: Đặc biệt phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng
thể của hệ thống chính trị theo phương châm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
Hai là: Phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện gắn việc nâng cao chất lượng và hiệu
lức hoạt động của quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp,
9
gắn với việc thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp để nhân dân bàn bạc, quyết định trực tiếp
những công việc quan trọng, thiết thực gắn với lợi ích của mình.
Ba là: Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ là chất lượng và có hiệu quả.
Bốn là: Nội dung các quy chế dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với hiến pháp, pháp
luật, thể hiện dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự, quyền hạn đi liền với trách nhiệm,
chống tình trạng vi phạm pháp luật hoặc các hành vi làm trái với quy chế dân chủ.
Năm là: Cần gắn quá trình xây trình và thực hiện quy chế dân chủ với cải cách
hành chính, sửa đổi nhửng cơ chế chính sách và các thủ tục không phù hợp với điều kiện
thực tế của đất nước.
1.5. Cơ sở thực tiễn về dân chủ:
- Trong quan điểm bản chất nhà nước ta được Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 thể chế hóa: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân lao động, tầng lớp trí thức”. Do đó, nguyên tắc tối cao của chế độ ta “ Tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân”.
Để cụ thể hóa chỉ thị 30 của Bộ chính trị nay sau đó Ủy ban thường vụ Quốc hội ra
nghị quyết về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính phủ có các nghị định về
thực hiện quy chế dân chủ trên 3 loại hình cơ sở đó là:
Nghị định 29 ra ngày 11/7/2003 thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường,
thị trấn.
Nghị định số 07/NĐ- CP ra ngày 7/8/1998 về thực hiện Quy chế dân chủ ở doanh
nghiệp.
Nghị định số 71/NĐ- CP ra ngày 8/9/1998 về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
quan hành chính sự nghiệp.
- Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước và quyền làm chủ xã hội không phải với
tư cách người riêng lẻ có lợi ích cá nhân tách rời mà trái ngược với lợi ích cộng đồng.
thực hiện quyền lực nhà nước và quyền làm chũ xã hội của nhân dân.
- Pháp luật là cái thể hiện và là cái bảo đảm cho quyền làm chủ của nhân dân lao
động và là công cụ quản lý xã hội. Nhà nước quãn lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực đời
sống kinh tế - văn hóa – xã hội, a