Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước tiến dài trong qúa trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, mở ra một chương mới trong kế hoạch đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện kế hoạch lớn của đất nước là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện đó thì đất nước đang tiến hành nhiều công cuộc xây dựng đất nước, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là mình hoạt động trong thị trường có nhiều tiềm năng như: thị trường rộng lớn, được Nhà Nước đầu tư, hỗ trợ, thu hút nhiều nguồn vốn từ bên ngoài (đặc biệt là vốn FDI và ODA) và đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, rẻ. Nhưng khi các doanh nghiệp nước ta còn chưa tận dụng được ưu thế này thì các doanh nghiệp phải đối mặt sự cạnh tranh khắc nghiệt, rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là lao động của nước ta dồi dào, như thế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sẽ tận dụng ưu thế này để có thể cạnh tranh tốt hơn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, công ty lớn trên thế giới, nhưng mọi người hãy nhìn lại nguồn lao động của nước ta hiện nay xem như thế nào. Theo thống kê thì hiện nay thì lao động của Việt Nam có năng suất thấp, chưa được đào tạo kĩ (có khoảng 37% lao động được đào tạo) còn lại là lao động phổ thông, có năng suất thấp. Điều đó ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nước ta trong quá trình sản xuất, kinh doanh, gây khó khăn cho quá trình đổi mới đất nước của nước ta hiện nay. Thấy được thực trạng trên nên chúng em muốn thông qua quá trình nghiên cứu về vấn đề năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam để hiểu thêm được tình hình năng suất lao động của người lao động nước ta và đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng suất lao động của lao động Việt Nam trong quá trình đổi mới, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của nước ta. Vì vậy chúng em quyết định chọn đề tài “giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam”.
39 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7430 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước tiến dài trong qúa trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, mở ra một chương mới trong kế hoạch đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện kế hoạch lớn của đất nước là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện đó thì đất nước đang tiến hành nhiều công cuộc xây dựng đất nước, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là mình hoạt động trong thị trường có nhiều tiềm năng như: thị trường rộng lớn, được Nhà Nước đầu tư, hỗ trợ, thu hút nhiều nguồn vốn từ bên ngoài (đặc biệt là vốn FDI và ODA) và đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, rẻ. Nhưng khi các doanh nghiệp nước ta còn chưa tận dụng được ưu thế này thì các doanh nghiệp phải đối mặt sự cạnh tranh khắc nghiệt, rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là lao động của nước ta dồi dào, như thế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sẽ tận dụng ưu thế này để có thể cạnh tranh tốt hơn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, công ty lớn trên thế giới, nhưng mọi người hãy nhìn lại nguồn lao động của nước ta hiện nay xem như thế nào. Theo thống kê thì hiện nay thì lao động của Việt Nam có năng suất thấp, chưa được đào tạo kĩ (có khoảng 37% lao động được đào tạo) còn lại là lao động phổ thông, có năng suất thấp. Điều đó ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nước ta trong quá trình sản xuất, kinh doanh, gây khó khăn cho quá trình đổi mới đất nước của nước ta hiện nay. Thấy được thực trạng trên nên chúng em muốn thông qua quá trình nghiên cứu về vấn đề năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam để hiểu thêm được tình hình năng suất lao động của người lao động nước ta và đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng suất lao động của lao động Việt Nam trong quá trình đổi mới, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của nước ta. Vì vậy chúng em quyết định chọn đề tài “giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam”.
2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này chúng em đã hiểu thêm về vấn đề lớn của lao động Việt Nam hiện nay là luôn có năng suất thấp. Điều đó là động lực thôi thúc chúng em học tập để có thể cải thiện năng suất lao động của Việt Nam, có những giải pháp cải thiện năng suất lao động của lao động, điều đó sẽ góp một phần sức vào quá trình hội nhập của Việt Nam một cách nhanh hơn, tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1 THẾ NÀO LÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện hiệu quả sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Nó là cơ sở để nghiên cứu đánh giá kết quả sử dụng lực lượng sản xuất và kết quả sản xuất kinh doanh.
Không ngừng tăng nâng suất lao động là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ, tăng lợi nhuận và cải thiện đời sống của người lao động.
1.2 CÁC CHỈ TIÊU CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
1.2.1 Căn cứ phương pháp tính năng suất lao động
Năng suất lao động thuận: phản ánh kết quả tính cho một đơn vị lao động hao phí
W
Năng suất lao động nghịch: phản ánh lượng lao động hao phí để tạo ra một đơn vị kết quả.
W
Trong đó:
Q: kết quả quá trình lao động.
T: lượng lao động hao phí,được biểu diễn bằng thời gian hao phí lao động
hoặc số lao động bình quân.
1.2.2 Căn cứ vào đơn vị biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất
Năng suất lao động hiện vật: là chỉ tiêu năng suất lao động mà kết quả quá trình sản xuất được tính theo hiện vật nhhuw lượng sản phấm sản xuất, khối lượng công việc hoàn thành…
Ưu điểm: đánh giá trực tiếp năng suất lao động và có thể dùng để so sánh trực tiếp năng suất lao động giữa các đơn vị cùng sản xuất ra một loại sản phẩm.
Nhược điểm: không tổng hợp được các loại sản phẩm khác nhau nên không thể tính năng suất lao động cho cả doanh nghiệp, không thể hiện toàn bộ kết quả lao động của đơn vị (như bộ phận sản phẩm dở dang) mà chủ yếu chỉ tính cho thành phần sản phẩm, nửa thành phẩm và khối lượng công việc hoàn thành.
Năng suất lao động biểu hiện bằng giá trị (tiền): giúp xác định được toàn bộ kết quả của lao động bao gồm thành phẩm, nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang, dịch vụ…ngoài ra chỉ tiêu này có thể xác định cho một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm.
Chỉ tiêu năng suất lao động biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay là giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, giá trị thành phẩm tính cho một đơn vị lao động hao phí.
Chú ý: chỉ tiêu nắng suất lao động biểu hiện bằng tiền phụ thuộc vào sự biến động của gía cả, có thể khắc phục bằng cách sử dụng giá so sánh hoặc giá cố định, ngoài ra tỉ trọng lao động quá khứ trong kết quả sản xuất của các ngành khác nhau cùng ảnh hưởng đến tính so sánh của chỉ tiêu năng xuất lao động, năng suất lao động dựa trên giá trị tăng thêm khắc phục được nhược điểm này và là chỉ tiêu năng suất lao động chủ yếu.
1.2.3 Căn cứ phạm vi của lao động
Chỉ tiêu năng suất lao động có thể tính cho toàn bộ lao động của đơn vị hoặc tính cho lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh, lao động từng ngành, từng phân xưởng, từng công việc…
Chý ý khi tính chỉ tiêu này cần phải đảm bảo quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất và phạm vi lao động.
1.2.4 Căn cứ biểu hiện của lao động hao phí
Lượng lao động hao phí của doanh nghiệp trong 1 thời kì được thể hiện bằng số giờ-người, ngày–người làm việc thực tế, hoặc bằng số lao động bình quân tháng, quí, năm do đó năng suất lao động có thể được xác định theo đơn vị thời gian tương ứng.
Hoặc
Năng suất lao động ngày= năng suất lao động giờ số giờ làm việc thực tế bình quân 1 ngày
Hoặc
Năng suất lao động bình quân tháng = số lao động làm việc thực tế bình quân 1 ngày x số ngày làm việc thực tế bình quân tháng (quí, năm).
1.3 CÁC CHỈ SỐ CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
Chỉ số năng suất lao động là chỉ tiêu qian trọng để đánh giá biến động và hiệu quả sử dụng lao động và qua đó phản ánh hiệu quả lao động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thống kê sử dụng các chỉ số năng suất lao động sau:
1.3.1 Chỉ số năng suất lao động bình quân
Chỉ số năng suât lao động bình quân: phản ánh biến động năng suất lao động của cả hiện tượng nghiên cứu.
với
1.3.2 Chỉ số bản thân năng suất lao động
Chỉ số bản thân năng suất lao động: phản ánh biến độngvề năng suât của các bộ phận, đơn vị trong các doanh nghiệp biến động năng suất bình quân chung.
Đối với năng suât lao động theo đợn vị tiền tệ, đơn giá có thể tính theo giá hiện hành hoặc giá cố định (trường hợp muốn loại trừ ảnh hưởng của biến động).
Đối với năng suất lao động hiện vật chỉ tính cho những lao động sản xuất một loại sản phẩm, một loại công việc. Trường hợp sản xuất nhiều loại sản phẩm ta sử dụng chỉ số của năng suất lao động nghịch với quyền số là sản lượng sản phẩm ở kì nghiên cứu.
Chênh lệch tuyệt đối phản ánh lượng lao động tiết kiệm (+) hay lãm phí (-) do năng suất lao động tăng hoặc giảm.
Nếu là thời gian hao phí lao động định mức cho từng sản phẩm, công việc, chỉ số trên phản ánh mức độ hoàn thiện định mức thời gian hao phí lao động của đơn vị.
1.4 TẦM QUAN TRỌNG CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Việc năng suất lao dộng tăng se giúp cho quá trình sản suất được nhanh hơn, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng hơn. Khi năng suất lao động được cải thiện thì quá trình tuyển chọn lao động, nhân viên sẽ được triển khai một cách nhanh chóng cà có chất lượng. Không những thế thì khi lao động Việt Nam được cải thiên về năng suất thì se thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư nghiên cứu và kinh doanh tại Việt Nam, lúc trước các doanh nghiệp luôn muốn vào nước ta đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp nhưng vẫn lo lắng về chất lượng lao động của Việt Nam, giải quyết được tình trạng trên thì nước ta sẽ thu hút được một nguồn vốn rất lớn từ bên ngoài.
Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp Việt Nam luôn bị các đối thủ nước ngoài chèn ép, sức cạnh tranh không cao, mặc dù nước ta có nguồn lao dộng dồi dào (gần 46 triệu lao động). Khi đó, ưu thế của Việt Nam sẽ rất lớn, có thể cạnh tranh với những nước trong khu vực và trên thế giới, tạo ra những thế mạnh lớn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
1.5. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong năng suất lao động của doanh nghiệp:
Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự coi tăng năng suất lao động như một yếu tố có tính quyết định đối với doanh nghiệp. Họ chưa thấy được những tầm quan trọng mà năng suất của người lao động mang lại, thông thường thì các doanh nghiệp thường tuyển nhân viên lao động phổ thông thì ít chú trọng đến việc xem họ có đủ trình độ chuyên môn và năng suất tạo ra sản phẩm của lao động mà chỉ cần tuyển dụng đủ số lao động, không những thế thì các doanh nghiệp cũng ít có chế độ đãi ngộ để cho người lao động có cơ hội nâng cao năng suất lao động của mình. Hạn chế trong tổ chức, đầu tư thiết bị, công nghệ, sử dụng con người, nắm bắt thị trường, thiếu nguồn lao động được đào tạo nghề bài bản, chuyên nghiệp… được cho là những nguyên nhân dẫn tới NSLĐ của Việt Nam thấp.
Chất lượng lao động chưa đạt chuẩn, thiếu kỹ năng chuyên môn để đạt năng suất cao, do vậy, thu nhập của người lao động thấp, không bảo đảm mức sống. Hệ lụy là thị trường lao động phát triển lệch pha, biến động và độ dịch chuyển cao. Sự biến động mạnh về giá cả vật tư đầu vào, hay việc cung ứng đầu ra còn nhiều trở ngại cũng là những nguyên nhân đáng kể dẫn tới NSLĐ của Việt Nam thấp hơn so các nước trong khu vực.
Sự lạc hậu của công nghệ, máy móc, thiết bị. Ngoài những công nghệ tiên
tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, thuỷ sản… Nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Ngay Thành phố Hồ Chí Minh, nơi các khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều dự án đầu tư nước ngoài hoạt động rất hiệu quả, thì trong một kết quả khảo sát “đánh giá trình độ công nghệ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và khu chế xuất Thành phố Hồ Chí Minh”, tại 429 doanh nghiệp thuộc 17 ngành, nghề khác nhau, năm 2009 cho thấy những điểm rất bất ngờ về trình độ công nghệ. Kết quả chỉ rõ, điểm mạnh của các doanh nghiệp này là yếu tố tổ chức, nhân lực. Còn điểm yếu thuộc về thông tin và thiết bị. Xét về thiết bị, trong 1.300 thiết bị được đánh giá, có 20% thiết bị mới với thời hạn sử dụng dưới 3 năm, 81% thiết bị có thời hạn sử dụng dưới 10 năm. 85% thiết bị hoạt động bán tự động hoặc tự động hoàn toàn, trên 40% dây chuyền hoàn toàn mới khi đầu tư và trên 70% dây chuyền hiện vẫn đang hoạt động tốt. Đây mới là khảo sát các doanh nghiệp có quy mô lớn, trang thiết bị nhập khẩu với nguồn vốn đáng kể, nhưng kết quả vẫn rất khiêm tốn. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ nhìn chung ở mức lạc hậu, thậm chí có nơi rất lạc hậu.
Năng suất lao động của các doanh nghiệp hạn chế còn có nguyên nhân từ môi trường kinh doanh như sự biến động mạnh về giá cả thị trường các vật tư đầu vào, việc cung ứng các đầu vào còn nhiều trở ngại, đặc biệt là lao động có trình độ. Thực tế cho thấy, cơ cấu đào tạo giữa các cấp học mất cân đối "thừa thầy, thiếu thợ". Tỷ lệ đào tạo ở nước ta hiện nay giữa đại học, cao đẳng - trung cấp chuyên nghiệp - học nghề là 10 : 9,8 : 30,3 (so với các nước là 1 : 4 : 10). Ngoài ra, các yếu tố làm hạn chế tăng doanh thu
như kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đến nhiều yếu tố khác đang là những trở ngại không nhỏ.
1.6. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
Theo những nghiên cứu gần đây thì có nhiều nhân tố tác động đến tăng năng suất lao động như: chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động; khoa học, kỹ thuật và công nghệ; tổ chức và cơ cấu sản xuất; quản lý lao động; tài nguyên thiên nhiên và khí hậu; ổn định chính trị xã hội quốc gia và ổn định của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất...
Trong các nhân tố đó, chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động, vì việc kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ xã hội. Trình độ lành nghề và tác phong làm việc của người lao động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, cùng những sản phẩm hàng hoá có tính chuyên nghiệp hoá. Người lao động có trình độ nghề nghiệp không những cần có kỹ năng lao động mà còn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy chỉ khi nào người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, có ý thức và tinh thần sáng tạo. Có thể nói, thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của nước ta trong hơn 20 năm qua quan trọng nhất chính là do tăng năng suất lao động xã hội mà có.
Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là công cụ sản xuất với trang bị công nghệ và kỹ thuật ngày càng cao. Đó là máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất tiên tiến cùng các quy trình sản xuất và quản lý hiện đại, giảm bớt những chi phí trung gian. Khoa học, công nghệ, kỹ thuật luôn gắn với tổ chức bộ máy quản lý, quá trình hợp lý hoá sản xuất nhằm thúc đẩy sản xuất mang tính cạnh tranh hơn và người lao động làm việc hiệu quả hơn, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng cao hơn, tiêu thụ được nhiều hơn...
Việc tăng năng suất lao động xã hội có tác động rất lớn đến cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới quản lý nền kinh tế và thực hiện những chính sách an sinh xã hội. Chính vì vậy mà tăng năng xuất lao động xã hội là yêu cầu thường xuyên và cấp thiết để nền kinh tế của các quốc gia phát triển nhanh và bền vững. Như Lê-nin từng chỉ rõ: Suy cho cùng thì năng suất lao động là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho chế độ xã hội này chiến thắng chế độ xã hội khác.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, trong đó đặc biệt là năng suất lao động (NSLĐ). Đặc biệt là khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải linh hoạt và chủ động trong quá trình đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên ngày càng có chuyên nghiệp hơn, có trình độ chuyên môn cao, đủ khả năng tiếp nhận những công nghệ tiên tiến, hiện đại của các nước tiên tiến, phát triển trước. không chỉ thế, khi nền kinh tế thế giới đã dần bước đến ngưỡng cửa bão hòa về giá cả và chất lượng thì các doanh nghiệp cần phải biết phát huy những thế mạnh của mình để có thể cạnh trannh với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Thế nhưng, khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được những ưu thế về lực lượng lao động dồi dào của đất nước thì các doanh nghiệp lại phải đối mặt với một thực trạng đáng buồn là trình độ lao động của lao động Việt Nam thấp, năng suất lao động không cao, luôn bị các đối tác nước ngoài đánh giâ thấp.
Vốn có thể vay được, công nghệ có thể mua được, còn lao động là yếu tố nội lực, lại đang có lợi thế về số lượng dồi dào, tỷ lệ lao động trẻ cao, có tính chịu khó và giá nhân công rẻ... Chính vì thế, giải quyết việc làm để sử dụng số lượng lao động đã và đang là mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu để giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm.
Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng trưởng kinh tế 8,5%, thì dù việc tăng trưởng
số lượng lao động có đạt 2,4% (là tốc độ tăng bình quân năm trong thời kỳ 2001-2006), thì gánh nặng sẽ dồn cho việc tăng năng suất lao động đã lên đến 6%, mới đạt được mục tiêu. Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội (tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của Việt Nam là 22,46 triệu đồng/người (trong đó nông, lâm nghiệp 7,09 triệu, thủy sản 24,59 triệu, công nghiệp 58,25 triệu, xây dựng 26,45 triệu, thương nghiệp 25,29 triệu, khách sạn, nhà hàng 45,78 triệu, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 36,15 triệu, văn hóa, y tế, giáo dục 27,37 triệu, các ngành dịch vụ khác 57,55 triệu).
Trước hết, năng suất lao động của Việt Nam nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái năm 2006 (bình quân khoảng 15.958 VND/USD) đạt 1.407 USD/người, còn thấp xa so với mức năng suất lao động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực (Indonesia 2.650 USD, Philippines 2.689 USD, Thái Lan 2.721 USD, CHND Trung Hoa 2.869 USD, Malaysia 12.571 USD, Hàn Quốc 33.237 USD, Singapore 48.162 USD, Brunei 51.500 USD, Nhật Bản 70.237 USD...).
Nếu chia theo nhóm ngành thì năng suất lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm, nghiệp thấp nhất, chỉ bằng một phần ba mức năng suất lao động chung của cả nước, chỉ bằng một phần tám mức năng suất lao động của nhóm ngành cao nhất là ngành công nghiệp, chưa bằng một phần ba mức năng suất lao động của ngành thủy sản.
Theo số liệu đăng kí kinh doanh, hiện nay có khoảng 250.000 doanh nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra tổng thể doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2003 - 2006, thì hiện chỉ có 113.352 doanh nghiệp thực tế đang hoạt động trong cả nước, trong đó có 4.086 doanh nghiệp nhà nước, 105.569 doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, 3.697 doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Theo lĩnh vực kinh tế, có 2.429 doanh nghiệp trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; có 40.799 doanh nghiệp trong công nghiệp, xây dựng và có 70.124 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ (Bảng 1).
Bảng 1. Số doanh nghiệp theo khu vực và ngành kinh tế trong cả nước
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Tổng số doanh nghiệp
62.908
72.012
91.755
113.352
Trong đó, chia theo khu vực:
- Doanh nghiệp nhà nước
5.663
4.845
4.596
4.086
- Doanh nghiệp ngoài nhà nước
55.237
64.526
84.003
105.569
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.308
2.641
3.156
3.697
Chia theo lĩnh vực:
- Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
3.379
2.405
2.369
2.429
- Công nghiệp
23.703
27.915
34.217
40.799
- Dịch vụ
35.826
41.692
55.169
70.124
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2005 và 2007 Năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp tính theo doanh thu thuần giai đoạn 2000-2005 như bảng 2 dưới đây. Trong 6 năm qua, năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp tăng 8,7%/ năm. Nếu loại trừ tác động của yếu tố giá thì tăng trưởng năng suất bình quân của các doanh nghiệp đạt 8,4%/ năm, cao hơnnhiều so với tăng trưởng năng suất lao động toàn bộ nền kinh tế (khoảng 6%/ năm).
Bảng 2. Năng suất bình quân của các doanh nghiệp, 2000 - 2005
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
809786
897856
1194902
1436451
1719401
2159400
Tổng số lao động DN
3537,0
3933,2
4657,8
5175,1
5770,2
6243,5
Năng suất lao động
228,9
228,3
256,5
277,57
298,0
345,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong các loại hình do