Có thể nói, chính sách xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong quá trình phát triển của các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình thức và loại chính sách xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là hệ thống công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức và đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội cũng như các thành viên trong xã hội, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người. Theo Các Mác, trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội, do đó, chính sách xã hội cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện cho mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội dung khác nhau, song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng, giúp đỡ kẻ nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống., bảo đảm an ninh, an toàn xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân, viên chức khu vực nhà nước và dần mỡ rộng ra ngoài khu vực quốc doanh. Trong quá trình thực hiện BHXH không ngừng được bổ sung, sữa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
18 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 12914 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải quyết khiếu nại về chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động trong doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TÂY NINH
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
(
TÊN ĐỀ TÀI :
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
Họ và Tên : Trần Hồng Nam
Tổ : 3
Lớp : BDKTQLNN ngạch chuyên viên (BHXH-KBNN)
ĐVCT : Bảo hiểm xã hội huyện Dương Minh Châu
GVHD : Mai Tuấn Kiệt
Năm 2009- 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
* Ưu điểm:
* Hạn chế:
* Điểm :
Giáo viên Giáo viên
MỤC LỤC
A. Lời nói đầu: Trang 4
B. Phần nội dung:
I. Mô tả tình huống Trang 6
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống Trang 7
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả tình huống
1. Nguyên nhân Trang 8
2. Hậu quả Trang10
IV. Phương án giải quyết Trang 11
V. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện .Trang 13
C. Kết Luận và kiến nghị :
I. Kết luận Trang 14
II. Kiến nghị Trang 15
A- LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, chính sách xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong quá trình phát triển của các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình thức và loại chính sách xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là hệ thống công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức và đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội cũng như các thành viên trong xã hội, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người. Theo Các Mác, trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội, do đó, chính sách xã hội cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện cho mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội dung khác nhau, song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng, giúp đỡ kẻ nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống..., bảo đảm an ninh, an toàn xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân, viên chức khu vực nhà nước và dần mỡ rộng ra ngoài khu vực quốc doanh. Trong quá trình thực hiện BHXH không ngừng được bổ sung, sữa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) trước hết là một chính sách xã hội của Nhà nước, vì vậy Nhà nước có vai trò quan trọng trong các hoạt động của BHXH. Trước đây, Nhà nước Việt Nam vừa hoạch định chính sách vừa thực hiện chính sách BHXH. Trong thời gian gần đây, hoạt động BHXH không ngừng phát triển cả về nội dung lẫn hình thức tổ chức, thực hiện theo hướng đa dạng hoá và xã hội hoá. Tuy nhiên không vì thế mà vai trò của Nhà nước bị giảm đi mà ngược lại Nhà nước vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong BHXH. Thông qua các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, Nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật về BHXH và thực hiện điều tiết, định hướng, quản lý các hoạt động BHXH trong khuôn khổ pháp luật.
Trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, Bộ luật lao động đã được Quốc hội khóa IX - kỳ họp thứ 5 thông qua, Chủ tịch nước ký lệnh công bố số 35/L-CTN ngày 07 tháng 05 năm 1994, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 1995; trong đó có Chương XII quy định về Bảo hiểm xã hội, xác định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động; Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 26/01/1995 kèm theo là điều lệ BHXH; Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29.6.2006; đồng thời các văn bản dưới luật đã cụ thể hóa các nội dung về chính sách BHXH nhằm đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống của người tham gia Bảo hiểm xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, nảy sinh rất nhiều các mối quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Vì vậy thực hiện và giải quyết tốt các quan hệ lao động trong lĩnh vực này hết sức khó khăn và phức tạp, thực hiện tốt công việc này vừa là nhiệm vụ của ngành BHXH, là sự mong mỏi của mỗi người, đồng thời cũng là đòi hỏi của các cấp Ủy Đảng, chính quyền, người lao động đối với ngành BHXH.
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong huyện thường vi phạm nhiều quy định về pháp luật lao động, như việc ký kết hợp đồng lao động, an toàn vệ sinh lao động, chế độ BHXH… do nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người lao động từ đó nảy sinh nhiều tranh chấp lao động dẫn đến tình trạng đình công, khiếu nại, tố cáo, đây là vấn đề bức xúc hiện nay, đã và đang xảy ra ảnh hưởng xấu đến dư luận và tâm lý người lao động, đồng thời ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh ta. Do đó, trong phạm vi tiểu luận này tôi xin đề cập đến “Tình huống giải quyết khiếu nại trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
Là một công chức Nhà nước, hiện đang công tác ở ngành Bảo hiểm xã hội huyện Dương Minh Châu , sau khi tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước của ngành BHXH cộng với những kinh nghiệm thực tế trong công tác. Tôi chọn đề tài “Giải quyết khiếu nại về chính sách Bảo hiểm xã hội cho người lao động trong doanh nghiệp” làm tiểu luận cuối khóa. Đây là tiểu luận nghiên cứu nhằm cũng cố và vận dụng kiến thức đã học vào trong thực tiễn của đơn vị đang công tác, đồng thời giúp cho bản thân tìm hiểu nguyên nhân và xử lý giải quyết công việc một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng qui định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động trong huyện.
Phạm vi đề tài này chỉ giải quyết khiếu nại về chính sách bảo hiểm của bà Trịnh Thị Thu là người lao động tại Công ty TNHH May mặc Minh Châu huyện Dương Minh Châu- Tây Ninh. Nội dung của đề tài bao gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận, kiến nghị
Do thời gian thực hiện đề tài ngắn và bị ảnh hưởng của công tác chuyên môn nên trong quá trình thực hiện tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của quý Thầy, Cô.
Xin chân thành cảm ơn !
B- NỘI DUNG
Phần I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Công ty TNHH May mặc Minh Châu, huyện Dương Minh Châu là một Công ty may áo gió, có 100% vốn đầu tư của Đài Loan, được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 2008. Trong quá trình hoạt động, công ty đã đăng ký tham gia BHXH cho 100 người lao động từ tháng 10 năm 2008 trên tổng số 142 lao động đang làm việc tại công ty.
Công ty đến BHXH huyện để đăng ký gia BHXH cho người lao động trong công ty, công ty lập danh sách theo mẫu 02/SBH đề nghị Bảo hiểm xã hội huyện cấp sổ BHXH cho người lao động . Đến ngày 10 tháng 6 năm 2009, chị Trịnh Thị Thu là công nhân của công ty trong lúc làm việc đã bị tai nạn lao động là dập một bàn tay, tỷ lệ thương tật mất sức lao động 30% do Hội đồng Giám định y khoa xác nhận. Chị Thu đã đến cơ quan Bảo hiểm xã hội để lập thủ tục hưởng trợ cấp BHXH về chế độ tai nạn lao động, thì cơ quan Bảo hiểm xã hội mới phát hiện là chị Thu chưa được công ty đăng ký tham gia BHXH nên theo qui định cơ quan Bảo hiểm xã hội đã từ chối không thanh toán cho chị .
Chị Thu do không được giải quyết chế độ tai nạn lao động, nên chị đã làm đơn khiếu nại gửi đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động huyện và Bảo hiểm xã hội huyện Dương Minh Châu. Ngày 20 tháng 6 năm 2009 các cơ quan chức năng thành lập đoàn liên ngành đến làm việc với Công ty TNHH mai mặc Minh Châu và thống nhất kiến nghị công ty phải truy nộp BHXH cho số lao động đúng theo quy định và truy nộp đủ số tiền BHXH chênh lệch của 42 lao động mà công ty đã ký hợp đồng lao động. Đồng thời đoàn liên ngành đề xuất hướng giải quyết chế độ tai nạn lao động cho chị Thu được trợ cấp tai nạn lao động theo quy định trong Luật BHXH.
Mặc dù các ngành chức năng có đề nghị công ty phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật lao động để giải quyết chế độ trợ cấp tai nạn lao động cho chị Thu, nhưng qua 4 tháng kể từ ngày đề nghị, công ty vẫn không chấp hành. Vì vậy chị Thu chưa được giải quyết chế độ trợ cấp tai nạn lao động, cuộc sống kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, nên đã tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi đến nhiều cơ quan chức năng, Đài Phát thanh và truyền hình và Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, cho đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, đã ảnh hưởng không tốt đến tâm tư, tình cảm và cuộc sống gia đình của chị Thu, đồng thời cũng ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội đối với công ty.
Từ những sự việc đã nêu trên ta cần có một cách nhìn khách quan: Đối với hành vi sai phạm trên của công ty TNHH mai mặc Minh Châu , thì sẽ áp dụng hình thức xử lý như thế nào để đạt hiệu quả, làm cho công ty thấy được hành vi sai phạm của mình, để chấn chỉnh sửa chữa khắc phục và tự giác thi hành kiến nghị của các cơ quan chức năng; đối với các ngành chức năng trong huyện và cơ quan Bảo hiểm xã hội thì phải giải quyết như thế nào để đạt hiệu quả hợp tình hợp lý, đúng pháp luật và từ đó chúng ta thử tìm phương án cụ thể để giải quyết tốt nhất cho sự việc nêu trên để vừa đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động cũng như người sử dụng lao động.
PHẦN II
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Từ tình huống của chị Trịnh Thị Thu tại công ty TNHH Minh Châu khi giải quyết khiếu này về chính sách BHXH chúng ta cần xác định 3 nục tiêu cơ bản: mục tiêu đối với chị Thu; mục tiêu đối với công ty TNHH Minh Châu; mục tiêu đối với BHXH và một số cơ quan lien quan ở huyện Dương Minh Châu.
* Đối với chị Trịnh Thị Thu:
Việc giải quyết trợ cấp tai nạn lao động cho chị Thu không chỉ mang lại quyền lợi chính đáng cho chị, mà còn tạo niềm tin cho hàng trăm công nhân lao động đang làm việc trong công ty, đồng thời còn thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật của cá nhân, đơn vị và tổ chức nhằm góp phần làm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ cương.
* Đối với công ty TNHH Minh Châu:
Về phía Công ty Minh Châu thì phải thấy được nghĩa vụ của người chủ sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động để chấp hành và thực hiện đúng quy định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, tạo điều kiện cho nối quan hệ lao động giữa công ty và người lao động được hài hòa, ổn định, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo ổn định đời sống xã hội.
* Đối với cơ quan nhà nước và BHXH huyện:
Với tình huống nêu trên, đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước phải xem xét và giải quyết vấn đề vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật lao động, vừa hợp tình hợp lý, đồng thời đỡ tốn kém thời gian cũng như không gây phiền hà cho người lao động và người sử dụng lao động.
Về phía Phòng Lao động Thương binh và Xã hội phải thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về lao động, có nghĩa là phải thường xuyên kiểm tra xử lý những trường hợp vi phạm để đảm bảo cho pháp luật lao động được thực hiện một cách nghiêm minh và đạt được mục tiêu đề ra trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đối với cơ quan Liên đoàn Lao động huyện thực hiện đúng vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động BHXH, phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội và các cơ quan có trách nhiệm để giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, các tranh chấp về BHXH đối với người lao động. Đồng thời phải quan tâm đến việc thành lập các tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, ngoài ra còn tư vấn cho công nhân lao động hiểu biết hơn về chế độ chính sách BHXH để họ tự bảo vệ quyền lợi của mình trước pháp luật.
Đối với cơ quan BHXH phải nhanh chóng có biện pháp tháo gỡ kịp thời những vướng mắc trong quá trình quản lý thực hiện chế độ chính sách BHXH để giải quyết kịp thời chế độ trợ cấp BHXH cho người lao động một cách hợp tình hợp lý. Qua đó tạo được niềm tin của người lao động khi tham gia BHXH.
PHẦN III
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
Nguyên nhân:
Mặc dù được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ luật Lao Động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp ngày 23 tháng 6 năm 1994 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, trong đó có chương XII quy định về BHXH, Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ ban hành kèm theo điều lệ BHXH; Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29.6.2006; đồng thời các văn bản dưới luật đã cụ thể hóa các nội dung về BHXH; ngày 26 tháng 05 năm 1997 BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 15-CT/TW về tăng cường lao động thực hiện các chế độ BHXH nhằm bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống người tham gia BHXH. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc triển khai, tổ chức thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, do một bộ phận lớn người lao động chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động chưa thấy được trách nhiệm của mình đối với người lao động, còn tìm cách né tránh hoặc không chấp hành đúng pháp luật lao động về thực hiện chính sách BHXH cho người lao động.
Công ty TNHH Minh Châu không chấp hành nghiêm Bộ luật Lao động, những quy định về luật BHXH, cố tình vi phạm không đăng ký tham gia BHXH cho người lao động với mục đích lợi nhuận của công ty.
Việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động huyện, Bảo hiểm xã hội huyện chưa làm hết trách nhiệm của các ngành, chưa phối kết hợp một cách đồng bộ và chưa tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân để xử lý sự việc một cách nghiêm minh, kịp thời.
Các cơ quan chức năng không thực hiện hết nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị mình đó là chức năng quản lý Nhà nước và chức năng giám sát việc quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động theo quy định của Bộ luật Lao động. Nếu các cơ quan này thường xuyên kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh và xử phạt kịp thời thì không xảy ra sự việc trên.
Trình độ quản lý của cán bộ công chức thuộc các ngành chức năng còn hạn chế, chưa làm hết chức năng tuyên truyền vận động cho người lao động và người sử dụng lao động hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về lao động.
Phòng Lao động Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân tỉnh quản lý Nhà nước về lao động đã chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình, việc tuyên truyền phổ biến hướng dẫn pháp luật lao động xuống Công ty TNHH Minh Châu chưa sâu rộng, chưa kỹ vì đây là đơn vị có 100% vốn đầu tư nước ngoài, giám đốc là người nước ngoài chỉ quan tâm đến lợi ích của công ty, cán bộ phụ trách nhân sự thì không nắm rõ pháp luật lao động, xem thường quyền lợi của người lao động, còn về phía người lao động, ý thức pháp luật chưa cao, chưa hiểu biết về quyền lợi khi tham gia BHXH hoặc do áp lực về việc làm, về thu nhập, nên không dám đấu tranh đòi hỏi chủ sử dụng lao động phải tham gia BHXH đầy đủ cho họ.
Về phía phòng Lao động huyện, theo Điều 12 Bộ luật Lao động quy định: Công đoàn tham gia với các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của người lao động, tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của Luật lao động. Tuy nhiên việc thành lập tổ chức công đoàn trong một số công ty đã được tiến hành, nhưng hoạt động chỉ mang tính hình thức, vì Ban chấp hành Công đoàn là những người lao động hưởng lương của chủ sử dụng lao động, do đó không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Về phía cơ quan Bảo hiểm xã hội khi công ty đăng ký tham gia BHXH cho người lao động không đúng quy định thì phải có biện pháp kiểm tra chấn chỉnh ngay từ đầu, phải kiến nghị phòng lao động, Thương binh và Xã hội kiểm tra hợp đồng lao động giữa công ty với người lao động để làm cơ sở trích nộp BHXH cho đúng theo quy định của Nhà nước. Nhưng cơ quan BHXH lại không kiểm tra lập biên bản nhắc nhỡ đơn vị sử dụng lao động và báo cáo với các ngành chức năng có biện pháp xử lý.
2- Hậu quả:
Người lao động gặp phải khó khăn về vật chất kéo dài, nhất là trong thời gian bị tai nạn lao động, không thể lao động và không có nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống hàng ngày, từ đó làm ảnh hưởng đến đời sống tinh thần và vật chất lâu dài, dẫn đến sự thiếu tin tưởng vào việc giải quyết của các cơ quan chức năng Nhà nước.
Hàng trăm lao động trong công ty không được hưởng các chế độ trợ cấp BHXH như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tuất… theo quy định của Bộ luật Lao động.
Quỹ BHXH bị thất thu với số tiền tương đối lớn gồm:
Số tiền tham gia BHXH cho 42 lao động đang làm việc tại công ty là: 42 X 960.000 đ (phát sinh của tháng) + 1.380.000 đ (lãi) + 48.300.000 đ (nợ kỳ trước chuyển qua) = 90.000.000đ. Vấn đề quan trọng ở đây là việc làm của công ty đã gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, đến sự phát triển của xã hội, không tạo được sự bình đẳng và công bằng xã hội giữa những người lao động cùng làm trong một công ty có người lại được hưởng chế độ BHXH nhưng có người lao động không được hưởng; tạo ra mối quan hệ không tốt giữa người lao động đối với chủ sử dụng lao động và nếu không giải quyết kịp thời có thể sẽ dẫn đến tình trạng đình công, bãi công… làm rối loạn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đồng thời còn làm hao tốn thời gian và công sức của cơ quan chức năng quản lý Nhà nước khi giải quyết sự việc trên, làm giảm lòng tin của người lao động đối với các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước.
Đối với tình huống trên làm thất thu cho quỹ BHXH là 90.000.000 đ, đồng thời nó báo động một hành vi vi phạm pháp luật lao động, xem thường những kiến nghị của các cơ quan chức năng. Do đó, cần phải giải quyết kịp thời triệt để và nghiêm minh để tạo ra một tiền đề tốt làm gương cho các đơn vị doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh ta. Do đó, cần phải có một phương án khả thi và những biện pháp chấn chỉnh xử lý giải quyết kịp thời, đảm bảo hợp tình hợp lý.
PHẦN IV
XÂY DỰNG VÀ LƯẠ CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
Đối tình huống của chị Trịnh Thị Thu, khi xây dựng các phương án giải quyết khiếu nại chính sách BHXH của chị cần dựa vào một số văn bản pháp luật sau đây: (anh Nam bổ sung them phần này)
Để giải quyết tình huống nói trên vừa đảm bảo đúng pháp luật lao động, vừa hợp tình, hợp lý ta cần phải xây dựng các phương án để thực hiện như sau:
* Phương án 1:
Ở tình huống trên, khi nhận được đơn khiếu nại của chị Thu, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Liên đoàn Lao động huyện, Bảo hiểm xã hội huyện đến và làm việc với Công ty TNHH May mặc Minh Châu và kiến nghị công ty phải truy nộp phần tiền đóng BHXH cho số lao động mà công ty chưa tham gia BHXH cho người lao động, do đó công ty còn phải đăng ký tham gia và truy đóng BHXH cho số lao động này theo qui định. Đồng thời phòng Lao động Thương binh và Xã hội chuyển hồ sơ sang UBND huyện ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính công ty với số tiền là : 5.000.000đ vì đã có hành vi vi phạm pháp luật lao động theo Nghị định số 135/2007/NĐ-CP ngày 16.8.