Tiểu luận Giải quyết tình huống nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tinh giản biên chế trong các cơ quan, tổ chức ở Thái Nguyên

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng và lãnh đạo qua mười lăm năm đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Trong thành tựu đó, phải kể đến sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đây là một lực lượng thường trực trong bộ máy Nhà nước, trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền với nó là việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Đảng và Nhà nước nhận thức rõ rằng cán bộ, công chức Nhà nước là yếu tố có tính quyết định đối với sự vận hành và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; đồng thời cũng chỉ rõ: “đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ, một số bộ phận không nhỏ thoái hoá biến chất” chưa đáp ứng được các yêu cầu của quản lý Nhà nước thời kỳ mới. Để có được đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh, khâu then chốt là việc đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, trong đó có vấn đề tinh giản biên chế. Theo hướng này Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng như Nghị định số 169 - HĐBT ngày 25/5/1991 về công chức Nhà nước, ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức số 01/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh như Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 96/1998/NĐ-CP về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức,. Trong nhiều năm qua, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung sự lãnh đạo và chỉ đạo việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý trong lĩnh vực dân số, lao động và bảo trợ xã hội cũng được chuyển dần sang phương hướng đó, nhằm quản lý và điều tiết vĩ mô toàn bộ hoạt động về phát triển dân số, lao động, việc làm, tiền lương và bảo trợ xã hội.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5771 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải quyết tình huống nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tinh giản biên chế trong các cơ quan, tổ chức ở Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ CÔNG CHỨC TỈNH THÁI NGUYÊN Tiểu luận GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ TINH GIẢN BIÊN CHẾ TRONG CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN Họ và tên: NguyÔn Thu Hương Lớp bồ dưỡng QLNN ngạch CVC THÁI NGUYÊN – 8/2011   Mục lục Đặt vấn đề………………………………………………………………  3   I. Mô tả tình huống……………………………………………………..  5   II. Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống…………………  11   III. Phương án tối ưu về công tác cán bộ trong các cơ quan hành chính ở Thái Nguyên hiện nay...........................  12   IV. Kiến nghị và đề xuất..........................................................................  14   Kết luận....................................................................................................  17   Tài liệu tham khảo...................................................................................  18   Đặt vấn đề Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng và lãnh đạo qua mười lăm năm đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Trong thành tựu đó, phải kể đến sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đây là một lực lượng thường trực trong bộ máy Nhà nước, trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền với nó là việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Đảng và Nhà nước nhận thức rõ rằng cán bộ, công chức Nhà nước là yếu tố có tính quyết định đối với sự vận hành và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; đồng thời cũng chỉ rõ: “đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ, một số bộ phận không nhỏ thoái hoá biến chất” chưa đáp ứng được các yêu cầu của quản lý Nhà nước thời kỳ mới. Để có được đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh, khâu then chốt là việc đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, trong đó có vấn đề tinh giản biên chế. Theo hướng này Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng như Nghị định số 169 - HĐBT ngày 25/5/1991 về công chức Nhà nước, ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức số 01/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh như Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 96/1998/NĐ-CP về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức,... Trong nhiều năm qua, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung sự lãnh đạo và chỉ đạo việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý trong lĩnh vực dân số, lao động và bảo trợ xã hội cũng được chuyển dần sang phương hướng đó, nhằm quản lý và điều tiết vĩ mô toàn bộ hoạt động về phát triển dân số, lao động, việc làm, tiền lương và bảo trợ xã hội. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây còn để lại nhiều di chứng nặng nề, qua những biểu hiện cơ bản sau: - Sự quản lý tập trung cao độ của Nhà nước trong lĩnh vực này thông qua hệ thống kế hoạch hóa xơ cứng mang tính mệnh lệnh hành chính bằng những chỉ tiêu pháp lệnh như: phân phối và sử dụng nguồn lao động, số lượng người làm việc, quỹ lương,... - Nhà nước bảo đảm việc làm cho người lao động, thu hút việc làm vào các khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ "biên chế Nhà nước" tràn lan, không khuyến khích tự do tìm việc làm. - Bao cấp tràn lan từ ngân sách Nhà nước cho chi tiêu tiền lương, bảo hiểm xã hội, không tính đến hiệu quả lao động và hiệu quả kinh doanh. - Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đẻ ra bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo nhưng hiệu quả công việc không cao, các cơ quan quản lý Nhà nước làm cả chức năng quản lý vi mô của các tổ chức và đơn vị cơ sở (quỹ tiền lương, số lượng người làm việc, năng suất lao động v.v...) Để khắc phục hậu quả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nhất là của cơ chế tuyển dụng lao động trước đây, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách giải quyết kịp thời, vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở kinh tế và của các cơ quan Nhà nước. Nội dung chủ trương, chính sách đó được thể hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước: quyết định 176/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về sắp xếp lại lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh, Quyết định 111/HĐBT ngày 12/4/1991 v/v sắp xếp tổ chức biên chế hành chính, sự nghiệp. Vấn đề biên chế và tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính là vấn đề khó khăn, phức tạp và cấp bách đặt ra cho tất cả các ngành, các cấp. Mục tiêu của tinh giản biên chế về lâu dài là: Đưa người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi biên chế cơ quan. Trước mắt: đưa được A% (x người) ra khỏi biên chế. Trong chuyên đề tiểu luận này, chúng tôi xin được nêu vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và các giải pháp tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính hiện nay nhằm giải quyết tốt bài toán tình huống: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vấn đề biên chế và tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính nhà nước. Đây là vấn đề đang được xã hội quan tâm, cần có biện pháp để giải quyết về căn bản. I. Mô tả tình huống Ở nước ta, trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta đã sử dụng cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và quan hệ hành chính mệnh lệnh để điều hành các hoạt động kinh tế-xã hội. Sau khi đất nước thống nhất bước vào thời bình, trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới, việc tiếp tục duy trì cơ chế đó đã bộc lộ hạn chế và tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế và các mặt khác của đời sống xã hội. Cơ chế cũ đã tạo ra một bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc hoạt động kém hiệu lực. Có thể nói, chỉ khi chúng ta thực hiện một bước chuyển có ý nghĩa cách mạng từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường thì mới thấy rõ lực lượng cán bộ, công chức nước ta bộc lộ nhiều mặt yếu kém cả về số lượng và phẩm chất, năng lực. Và do điều kiện lịch sử để lại, đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước nước ta khá đông đảo phần lớn được đào tạo khá cơ bản, song quá trình quen thuộc với cơ chế cũ nên khi chuyển sang cơ chế thị trường, họ tỏ ra có nhiều bỡ ngỡ. Chúng ta thiếu những cán bộ có kiến thức về hành chính và tri thức quản lý hành chính hiện đại, thiếu chuyên gia, thiếu cố vấn hàng đầu, do đó sự vận hành của nền hành chính công ở nước ta còn nhiều lúng túng, vấp váp, hiệu quả thấp. Mặt khác, có một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trong bộ máy quản lý Nhà nước quan liêu cửa quyền, tham nhũng, trình độ năng lực hạn chế, và thiếu tính năng động trong hoạt động công vụ. Tình hình đó, đã ảnh hưởng xấu đến quá trình đổi mới kinh tế, đến sự phát triển của xã hội, không chỉ là tình trạng chung trong cả nước, mà còn là vấn đề cần giải quyết ở một tỉnh miền núi như Thái Nguyên. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tiến hành nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời với việc thực hiện các giải pháp tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính. Đây cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết của việc cải cách một bước nền hành chính Nhà nước ở Thái Nguyên hiện nay. Tinh giản biên chế là sàng lọc ra khỏi bộ máy những biên chế không cần thiết, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng hơn, tinh thông nghiệp vụ hơn. Tinh giản là ra soát lại vị trí của từng cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính, xem vị trí, chức năng, nhiệm vụ của họ có cần thiết phải bố trí trong dây chuyền lao động thực thi công vụ, nhiệm vụ của bộ máy hay không. Giả sử cắt bỏ vị trí đó đi mà bộ máy vẫn hoạt động bình thường thì nên cắt bỏ. Tinh giản biên chế thực chất là giải pháp quan trọng khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh hiện nay trong đội ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu của tinh giản biên chế không đơn giản là để giảm chi phí hành chính, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, mà mục tiêu chính của nó là làm cho chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức được đảm bảo và ngày một nâng cao. Việc tinh giản biên chế không ảnh hưởng gì đến việc tuyển dụng mới, nếu có nhu cầu tuyển dụng mới vẫn phải tuyển dụng bình thường. Có điều tuyển dụng mới vào biên chế Nhà nước phải có yêu cầu cao hơn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Những năm qua, biên chế không giảm mà... tăng liên tục(!). Chỉ tính riêng khối Nhà nước, Đảng, Đoàn thể năm 1993 mới có khoảng 200.000 người, đến năm 2000 đã tăng lên hơn 300.000 người. Khối hành chính sự nghiệp có 1,2 triệu biên chế, trong đó ngành y tế, giáo dục không giảm mà tiếp tục tăng với tốc độ 70.000 người/năm. Hiện cả nước có khoảng trên 7 triệu người (khoảng 1/10 dân số) sống dựa vào ngân sách Nhà nước. Chúng ta có thể khẳng định: Nếu không thực hiện thành công việc tinh giản biên chế thì bài toán cải cách hành chính vẫn tiếp tục bị "treo" đáp số. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ về "tích cực chỉ đạo việc giảm biên chế hành chính các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, biên chế gián tiếp trong các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước với mức phấn đấu khoảng 15% và giảm không theo tỷ lệ bình quân". Tìm lời giải cho tình huống này là một vấn đề không đơn giản. Một số vấn đề mang tính nhạy cảm khi thực hiện tinh giảm biên chế trong tổ chức nói chung và trong các cơ quan nhà nước nói riêng. Mỗi một người có thể nhận thức khác nhau về vấn đề này. Lý do có nhiều, có thể thấy một số lý do chủ yếu sau đây: - Mô hình chức nghiệp cản trở tinh giảm biên chế - Chế độ bao cấp - Khác Gần đây, năm 2008 Luật cán bộ công chức được triển khai trên thực tế cũng góp phần tích cực vào giải quyết tình huống biên chế cán bộ trong các cơ quan tổ chức vừa thừa vừa thiếu hiện nay: thiếu những người đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc, thừa những người không đủ trình độ, năng lực. Theo Luật cán bộ công chức 2008 có thể thấy về phân công quản lý cán bộ, công chức; thẩm quyền quyết định biên chế cán bộ, công chức đã có một bước tiến quan trọng Trong hệ thống chính trị ở nước ta, công tác cán bộ, công chức có sự đan xen, kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo trong Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội. Đội ngũ cán bộ, công chức được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng. Việc quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, bố trí sử dụng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức được thực hiện theo quy định của điều lệ, các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực tế hiện nay, việc quyết định biên chế đang được giao cho nhiều tổ chức, cơ quan thực hiện. Công tác quản lý cán bộ, công chức có nhiều nội dung như xác định biên chế, vị trí công tác, tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển… do đó cần phải quy định cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời góp phần khắc phục từng bước những bất cập do nhiều đầu mối quản lý. Bởi vậy, Luật đã dành một chương (Chương VI: Quản lý cán bộ, công chức) để xử lý vấn đề này. Trước đây, Pháp lệnh quy định vừa cô đọng vừa chưa rành mạch; trong nội dung quản lý cán bộ, công chức lại có cả đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thực hiện tiền lương và các chế độ, chính sách…, nay các nội dung đó được đưa về chương “Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức”. Còn nội dung quản lý cán bộ, công chức chỉ bao gồm những vấn đề chính là: - Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức; - Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức; - Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ; - Quy định ngạch, chức danh mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế… Về thẩm quyền quyết định biên chế cán bộ, công chức, Luật vừa kế thừa Pháp lệnh, vừa đổi mới, phân công, phân cấp cho hợp lý hơn, cụ thể là: - Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên chế công chức của Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Toà án nhân dân các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp. - Chủ tịch nước quyết định biên chế công chức của Văn phòng Chủ tịch nước. - Chính phủ quyết định biên chế công chức của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà nước. - Căn cứ vào quyết định chỉ tiêu biên chế được Chính phủ giao, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập của Ủy ban nhân dân các cấp. - Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định biên chế công chức trong cơ quan và đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội. Trong việc thực hiện quản lý cán bộ, công chức, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công chức. Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về công chức theo phân công, phân cấp của Chính phủ. Ủy ban nhân dân cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về công chức theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện việc quản lý công chức theo phân cấp của cơ quan có thẩm quyền và theo quy định của Chính phủ. Nguyên nhân của vấn đề tăng biên chế Để đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề trên, cần phải chỉ ra được nguyên nhân của sự tăng biên chế trong thời gian qua. Có rất nhiều nguyên nhân làm tăng biên chế trong bộ máy hành chính, có thể kể ra một số nguyên nhân khách quan bao gồm: - Tăng biên chế theo tốc độ tăng tự nhiên của dân số, rõ nét nhất là trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, và các hoạt động sự nghiệp khác. Do điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển dẫn đến sự tăng nhanh các nhu cầu học tập, chữa bệnh và các nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, lẽ đương nhiên dẫn đến việc tăng lực lượng cán bộ, công chức giải quyết các nhu cầu đó. - Việc chia tách các đơn vị hành chính các cấp làm tăng nhanh các đơn vị hành chính, cũng đồng nghĩa với việc làm tăng nhanh bộ máy và các đầu mối trực thuộc của bộ máy hành chính. Thí dụ: năm 1976, toàn quốc có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 287 huyện, quận, thành phố, thị xã, 5768 xã, phường, thị trấn. Đến nay, cả nước ta có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 622 huyện, quận; 10511 xã, phường, thị trấn. Nhiều nhiệm vụ phát sinh trong quy trình chuyển đổi nền kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có bộ máy và cán bộ công chức phục vụ cho sự phát sinh đó và làm tăng thêm nhiều tổ chức và cơ quan mới. Thí dụ như các cơ quan phòng chống AIDS, phòng chống tệ nạn xã hội, cơ quan thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, Tòa án hành chính, Tòa án lao động, Thi hành án, chống buôn lậu, Kiểm toán Nhà nước, ủy ban chứng khoán Nhà nước. Ngoài ba nguyên nhân khách quan kể trên, còn có những nguyên nhân chủ quan sau đây dẫn đến việc tăng nhanh biên chế. Đó là: - Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, nhiều tầng nấc trung gian, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo. Thời gian gần đây, có sự sắp xếp, sáp nhập được một số bộ, ngành nhưng đầu mối và đơn vị tổ chức trong các bộ, ngành và cơ quan giúp việc UBND lại có chiều hướng tăng lên. - Việc tiêu chuẩn hóa và chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức chưa được tiến hành chặt chẽ, đều khắp, chưa đảm bảo chất lượng hay trình độ năng lực; đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhìn chung vừa thừa vừa thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Số cán bộ, công chức làm việc có chất lượng cao không nhiều, số cán bộ, công chức làm công tác phục vụ khá đông ở các cơ quan hành chính sự nghiệp (chiếm gần 20% tổng biên chế hành chính sự nghiệp). Tình trạng này chậm được khắc phục. Tuy đã xây dựng được hệ thống các tiêu chuẩn chức danh nhưng trên thực tế tuyển chọn và bố trí sử dụng không theo các tiêu chuẩn đó. Bên cạnh đó, không ít các tiêu chuẩn, chức danh đề ra còn duy ý chí, không sát với thực tế. Về chế độ tuyển dụng, đã bắt đầu áp dụng hình thức thi tuyển nhưng mới thể hiện các quy phạm có tính hướng dẫn. Việc thực hiện triển khai chúng ở các ngành, các địa phương cho thấy còn bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, chưa bảo đảm đầy đủ tính công khai, dân chủ lựa chọn đúng người có đủ phẩm chất năng lực. - Cơ chế giao và quản lý biên chế còn mang nặng dấu ấn của thời bao cấp, cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Hạn mức kinh phí cho hoạt động hành chính của các cơ quan cấp theo số lượng biên chế, không tính đến vị trí, tầm quan trọng, khối lượng công việc của cơ quan và các yếu tố khác. Điều này tạo ra khuynh hướng các cơ quan đều muốn tăng chỉ tiêu biên chế để được cấp thêm kinh phí hoạt động. - Tổ chức quản lý biên chế quá phân tán, có nhiều cơ quan quyết định và quản lý biên chế như Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên chế cán bộ, công chức thuộc Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân, số lượng thẩm phán các tòa án, biên chế công chức Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước; Chính phủ quyết định biên chế và quản lý cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp Nhà nước; biên chế cán bộ làm việc trong các tổ chức chính trị-xã hội do tổ chức có thẩm quyền quyết định. - Biên chế tăng còn do nguyên nhân chúng ta không rà soát chặt chẽ khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy. Trong thực tế, mỗi lần sửa đổi, bổ sung hay ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới đều hình thành thêm các tổ chức mới và từ đây dẫn đến việc tăng biên chế không nhỏ. - Biên chế tăng còn do tuyển chọn ở đầu vào không chặt chẽ, giải quyết đầu ra không kiên quyết. Việc sàng lọc, tinh giản biên chế không được thực hiện thường xuyên. - Một nguyên nhân nữa là tổ chức khoa học lao động của cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp chưa được hoàn thiện. Sự phân công và hợp tác lao động của cán bộ, công chức trong bộ máy chưa tốt. Bởi lẽ, tổ chức bộ máy hành chính thực chất là được tổ chức dựa trên cơ sở phân công lao động của cán bộ, công chức giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính, mà tổ chức lao động hành chính hiện nay ở nước ta hoàn toàn chưa khoa học. Thực tế cho thấy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cũng như mối liên hệ giữa các cơ quan còn chồng chéo, trùng lắp, không rõ ràng. Cũng do sự phân công hợp tác lao động quản lý trong bộ máy quản lý hành chính chưa chặt chẽ, vẫn còn nhiều việc chồng chéo nhau, nhiều đơn vị cùng làm, nhiều người cùng phụ trách. Có thể nói rằng toàn bộ nội dung của tổ chức khoa học lao động của cán bộ, công chức từ khâu phân công hợp tác lao động, lựa chọn, bố trí cán bộ, tổ chức quy trình lao động, bảo đảm trang thiết bị kỹ thuật và điều kiện làm việc, định mức và tiêu chuẩn hóa lao động cho đến các giải pháp kích thích lao động chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cải cách hành chính. Đây cũng là nguyên nhân không kém phần quan trọng làm tăng biên chế hành chính Nhà nước bởi lẽ cải cách, hoàn thiện bộ máy hành chính xét cho cùng là cải cách phân công tổ chức lại lao động quản lý một cách hợp lý, khoa học. Thực tế cho thấy, nếu sáp nhập các sở thành sở mới mà không phân công lại lao động của cán bộ, công chức trong sở mới đó thì mới ở mức độ "góp gạo thổi cơm chung", khó lòng nói đến tinh giản biên chế cũng như thay đổi về chất sự hoạt động của mô hình tổ chức mới. Chúng tôi cho rằng, các nguyên nhân trên, đặc biệt là các nguyên nhân chủ quan là cội nguồn dẫn đến việc tăng nhanh biên chế cần phải triệt để khắc phục, nhằm giải quyết vấn đề biên chế đông đúc, vừa thừa lại vừa thiếu như hiện nay. II. Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống Vậy làm cách nào để có thể bảo đảm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, ổn định chuyên môn hóa cao, giảm được số lượng cán bộ, công chức không đủ
Luận văn liên quan