Một sự thật hiển nhiên là sự thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi cá nhân là chìa
khóa của sự thay đổi tổ chức. Một tổ chức không thể thay đổi theo đúng nghĩa nếu các
thành viên không thay đổi, mọi người phải tin tưởng theo một cách khác, s uy nghĩ
khác, và họ phải cư xử theo một cách khác. Vì thế, vai trò của những cá nhân trong
một nhóm hoặc một tổ chức đã được nghiên cứu từ lâu thông qua nhiều mô hình lý
thuyết và nghiên cứu (Van de Ven và Poole, 1995; Weick và Quinn, 1999; Woodman,
1989). Tuy nhiên, những gì ít được nghiên cứu là sự thay đổi cá nhân – theo khía cạnh
của tổ chức. Tổ chức làm thay đổi những con người bên trong tổ chức đó. Những sự
thay đổi này xảy ra theo nhiều cách khác nhau, có thể mô tả được và cũng có thể
không mô tả được. Mục đích của chương này nhằm phát triển lý thuyết thông qua
nghiên cứu sự ảnh hưởng của tổ chức lên cá nhân – cách thức tổ chức làm thay đổi cá
nhân trong tổ chức đó.
Quan điểm của chúng tôi về hành vi – cả hành vi cá nhân và hành vi tổ chức – là có
tính tương tác lẫn nhau. Hành vi của một con người ở một thời điểm bất kỳ được đặt
trong quan điểm tương tác này như sau:
Tưởng tượng rằng có một con chim ở trong một cái lồng. Tình huống này bao gồm cả
ý nghĩ về một “con chim” và dễ dàng xác định một thực tế trong đó con chim là chính
nó. Trong trường hợp này, áp lực từ môi trường giải thích hầu hết (nếu không nói là
tất cả) những hành vi của con chim. Giải thích cho 100% sự khác biệt ở các tình
huống, còn điều gì nữa để nói về con chim và hành vi của nó? Thực tế là mỗi yếu tố
3
quan trọng cần phải được giải thích thêm. Hay nói cách khác, sự miêu tả thận trọng
tình huống con chim đối phó với mô i trường bên ngoài không được dùng để giải thích
hành vi của loài chim theo thời gian. Con chim có thể làm gì khác nếu tình huống thay
đổi? Tại sao con chim lại hành động như vậy? Ban đầu, chúng ta có thể tượng tượng
rằng con chim sẽ bay tốt nếu điều kiện môi trường cản trở của “cái lồng” được dỡ bỏ.
Từ tình huống tương tác này, luôn có thêm điều gì đó để hiểu về hành vi hơn là chỉ
miêu tả lại một hành vi quan sát được. Cái “thêm điều gì đó” phải được nghiên cứu
theo những điều căn bản về tổ chức và hành vi tiềm năng của nó (Woodman và
Schoelfeldt, 1989, tr.79-80)
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3111 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hành trình thay đổi cá nhân trong tổ chức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
HÀNH TRÌNH THAY ĐỔI CÁ NHÂN TRONG TỔ CHỨC
Richard W. Woodman & Todd Dewett
Biên dịch:
Nhóm 2
Võ Phương Hồng Cúc
Nguyễn Thái Hiệp
Nguyễn Tuấn Quang
Phạm Anh Tuấn (73)
2
Một sự thật hiển nhiên là sự thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi cá nhân là chìa
khóa của sự thay đổi tổ chức. Một tổ chức không thể thay đổi theo đúng nghĩa nếu các
thành viên không thay đổi, mọi người phải tin tưởng theo một cách khác, suy nghĩ
khác, và họ phải cư xử theo một cách khác. Vì thế, vai trò của những cá nhân trong
một nhóm hoặc một tổ chức đã được nghiên cứu từ lâu thông qua nhiều mô hình lý
thuyết và nghiên cứu (Van de Ven và Poole, 1995; Weick và Quinn, 1999; Woodman,
1989). Tuy nhiên, những gì ít được nghiên cứu là sự thay đổi cá nhân – theo khía cạnh
của tổ chức. Tổ chức làm thay đổi những con người bên trong tổ chức đó. Những sự
thay đổi này xảy ra theo nhiều cách khác nhau, có thể mô tả được và cũng có thể
không mô tả được. Mục đích của chương này nhằm phát triển lý thuyết thông qua
nghiên cứu sự ảnh hưởng của tổ chức lên cá nhân – cách thức tổ chức làm thay đổi cá
nhân trong tổ chức đó.
Quan điểm của chúng tôi về hành vi – cả hành vi cá nhân và hành vi tổ chức – là có
tính tương tác lẫn nhau. Hành vi của một con người ở một thời điểm bất kỳ được đặt
trong quan điểm tương tác này như sau:
Tưởng tượng rằng có một con chim ở trong một cái lồng. Tình huống này bao gồm cả
ý nghĩ về một “con chim” và dễ dàng xác định một thực tế trong đó con chim là chính
nó. Trong trường hợp này, áp lực từ môi trường giải thích hầu hết (nếu không nói là
tất cả) những hành vi của con chim. Giải thích cho 100% sự khác biệt ở các tình
huống, còn điều gì nữa để nói về con chim và hành vi của nó? Thực tế là mỗi yếu tố
3
quan trọng cần phải được giải thích thêm. Hay nói cách khác, sự miêu tả thận trọng
tình huống con chim đối phó với môi trường bên ngoài không được dùng để giải thích
hành vi của loài chim theo thời gian. Con chim có thể làm gì khác nếu tình huống thay
đổi? Tại sao con chim lại hành động như vậy? Ban đầu, chúng ta có thể tượng tượng
rằng con chim sẽ bay tốt nếu điều kiện môi trường cản trở của “cái lồng” được dỡ bỏ.
Từ tình huống tương tác này, luôn có thêm điều gì đó để hiểu về hành vi hơn là chỉ
miêu tả lại một hành vi quan sát được. Cái “thêm điều gì đó” phải được nghiên cứu
theo những điều căn bản về tổ chức và hành vi tiềm năng của nó (Woodman và
Schoelfeldt, 1989, tr.79-80)
Quan điểm tương tác giữa hành vi tổ chức và sự thay đổi tổ chức đề xuất tầm quan
trọng của việc hiểu biết về những ảnh hưởng qua lại trong quá trình thay đổi. Hơn
nữa, những nghiên về sự tương tác cũng đề xuất tầm quan trọng của tiềm năng tổ
chức – hành trình phát triển tiến hành bởi cả những cá nhân và tổ chức. Vì hoạt động
của cá nhân trong môi trường của họ ảnh hượng đến sự thay đổi, vì thế môi trường tổ
chức làm thay đổi những người làm việc ở đó.
Như chúng ta đã nói, tổ chức làm thay đổi con người theo nhiều cách khác nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu một số nguồn gốc chính của sự thay đổi trong chương này; quá
trình hòa nhập tổ chức, đào tạo, sự giám sát và ảnh hưởng về mặt quản trị đối với cấp
dưới, và những ảnh hưởng của chính quá trình thay đổi tổ chức đến sự thay đổi. Trước
tiên, chúng ta sẽ định nghĩa thế nào là “sự thay đổi cá nhân”. Thay đổi cá nhân bao
gồm sự thay đổi trong hành vi và những thay đổi về mặt nhận thức và tính cách cá
nhân. Sau đó chúng ta sẽ phát triển một mô hình để xác định và giải thích vai trò của
tổ chức trong việc tạo ra những thay đổi cá nhân. Cuối cùng, chúng ta sẽ tìm hiểu sự
ảnh hưởng, tác dụng của mô hình đối với việc quản trị sự thay đổi và nghiên cứu về
sự thay đổi tổ chức.
Thay đổi cá nhân trong sự sắp đặt tổ chức
4
Được ghi nhớ sâu trong truyền thống của tổ chức là ý nghĩ rằng nhân viên không thực
sự thay đổi theo đúng nghĩa. Quả thực là, niềm tin này phản ánh những cảm nhận
chung của xã hội liên quan đến sự thay đổi. “Bạn không thể dạy con chó già những
mánh mới” và những ý kiến tương đồng gợi ý rằng thực sự các cá nhân không thể
thay đổi nhiều. Bất chấp sự ổn định về tính cách và những sự khác biệt mang tính cá
nhân khác theo thời gian, những hiểu biết thông thường liên quan đến sự thay đổi cá
nhân thật sự có gì đó không chính xác. Con người tiến hành những thay đổi, và họ
tiến hành điều đó theo hướng có thể dự báo được một cách tương đối trong toàn bộ
cuộc sống của họ (Hellervik, Hazucha và Schneider, 1992). Kinh nghiệm làm việc là
một phần quan trọng trong nhiều ảnh hưởng định hình và thay đổi nhận thức, động
lực, niềm tin, thái độ, và một số khía cạnh trong tính cách cá nhân… theo thời
gian.Chúng ta cần hiểu thêm về những ảnh hưởng như thế theo khía cạnh rộng hơn
của sự thay đổi tổ chức.
Chúng tôi định nghĩa thay đổi cá nhân bên trong một tổ chức là những thay đổi về
hành vi (vd: kết quả công việc), và thay đổi những đặc điểm cá nhân (ví dụ: kiến thức
về công việc, thái độ làm việc, động lực làm việc) liên quan đến chức năng và hiệu
quả của tổ chức.Theo đó, chúng tôi dự định giới hạn những thảo luận của chúng tôi về
những thay đổi cá nhân đến sự thiết lập công việc, ghi nhận những thay đổi này chỉ là
một phần của kinh nghiệm con người trong cuộc sống của họ.
Có 3 chiều kích về thay đổi hành vi cá nhân trong trường hợp chúng ta đang tìm hiểu:
khả năng thay đổi tính cách và hành vi cá nhân, chiều sâu của thay đổi, và thời gian có
liên quan đến sự thay đổi. Với khả năng thay đổi, chúng ta nói đến mức độ hoặc độ dễ
dàng khi thay đổi một số đặc điểm. Với chiều sâu của thay đổi, chúng ta nói đến sự
thay đổi cận biên – hành vi mới hoặc đặc điểm thay đổi như thế nào so với những giá
trị cũ. Bằng việc tập trung vào thời gian, chúng ta cố gắng để ghi lại quá trình của sự
thay đổi và nhận ra rằng, những sự thay đổi khác nhau mất những khoảng thời gian
khác nhau. Mỗi hành vi và mỗi đặc điểm cá nhân (đặc điểm về tính cách, thái độ…)
5
có thể được hiểu theo mức độ khả năng thay đổi nó. Cũng như vậy, mỗi sự thay đổi
trong những biến này có thể đo được về mặt chiều sâu của nó và tổng thời gian diễn ra
trong suốt quá trình thay đổi.
Ba chiều này có mối quan hệ với nhau, tuy nhiên, cần lưu ý chúng có tầm quan trọng
khác nhau. Khả năng thay đổi là một khía cạnh hay một đặc trưng của hành vi hay đặc
điểm cá nhân có thể khám phá được. Trái lại, độ sâu và thời gian có thể xem xét ở
khía cạnh của quá trình thay đổi hành vi hoặc tính cách cá nhân phải trải qua. Bất
chấp sự khác biệt đó, chúng ta thừa nhận cả 3 chiều này hoạt động tương tự nhau như
yếu tố điều chỉnh những ảnh hưởng của tổ chức lên sự thay đổi cá nhân.
Khả năng thay đổi
Các đặc điểm của cá nhân có thể khác biệt nhau rõ rệt về khả năng thay đổi. Ví dụ, sự
ổn định tương đối và khả năng thay đổi của nhiều khía cạnh về mặt tính cách đang là
chủ đề cho các cuộc nghiên cứu ngày nay (Caspi và Robert, 1999). Những lý thuyết
về tính cách cá nhân phân biệt giữa những đặc trưng cốt lõi của cá nhân với những
yếu tố ngoại vi thay đổi suốt quá trình sống (Funder,2001; Pervin và John, 1999). Rõ
ràng là những thái độ “mạnh” kháng cự với sự thay đổi nhiều hơn so với những cái
yếu hơn (Ajzen, 2001, Wood, 2000). Có vài khía cạnh của nhận thức tương đối ổn
định (ví dụ mức độ thông minh trung bình) trong khi những điều khác, ví dụ như
những kiến thức chuyên môn cụ thể lại sẵn sang thay đổi (Lubinski, 2000; Markman
và Gentner, 2001). Hellervik và đồng sự, 1992 tranh luận gay gắt rằng khả năng thay
đổi trong tính cách cá nhân là lưu ý chính để hiểu về sự thay đổi hành vi trong việc
thiết lập tổ chức. Họ tán thành những “cấp độ của khả năng thay đổi” và nghiên cứu
về chúng nhằm nâng cao hiểu biết về sự thay đổi hành vi, bắt nguồn từ việc huấn
luyện của tổ chức xung quanh những vấn đề khác. Chúng ta sẽ không phát triển các
cấp độ như thế này trong chương này, dù bảng 2.1 cho ví dụ về những “insight” phát
triển bởi những lý thuyết này.
6
Trong bảng 2.1, chúng ta liệt kê 4 biến của sự thay đổi cá nhân (thay đổi hành vi, thay
đổi nhận thức, thay đổi hiệu quả, nỗ lực – sẽ được thảo luận sau đây) và sự tương
phản giữa mức độ cao và thấp của khả năng thay đổi ở mỗi nhân tố này. Ví dụ, thay
đổi ở một số hành vi trong những công việc cụ thể dường như dễ dàng hơn những
thay đổi những hành vi theo chuẩn mực thông thường. Những thước đo về mặt xã hội
đối với hành vi ứng xử khiến nó kháng cự với sự thay đổi nhiều hơn. Và theo đó, kiến
thức một nhân viên về một công việc cụ thể dễ dàng thay đổi hơn kiến thức về một số
khía cạnh phức tạp của hoạt động tổ chức, như văn hóa tổ chức. Thái độ về sự hài
lòng trong công việc dường như dễ dàng thay đổi hơn thái độ về sự tận tâm trong
công việc. Sự tận tâm có đặc trưng ổn định hơn sự hài lòng và ít khả năng thay đổi
theo những sự kiện thường ngày (Hellriegel, Slocum, và Woodman, 2001, p.54). Từ
quan điểm tương tác này, có tranh luận rằng những động lực xuất phát từ bên ngoài
(như một chức năng của sự khen thưởng trong một tình huống cụ thể) có khả năng
thay đổi nhiều hơn là một động lực từ bên trong (mà động lực này lại liên quan chặt
chẽ đến những thước đo giá trị cốt lõi của cá nhân một con người. Chúng ta sẽ nói
nhiều hơn về khả năng thay đổi trong chương này.Về điều này chúng ta chỉ đề xuất
rằng: khả năng thay đổi quan trọng trong mô hình của chúng ta:
Mệnh đề 1: Khả năng thay đổi của tính cách và hành vi cá nhân điều chỉnh sự ảnh
hưởng của tổ chức lên sự thay đổi cá nhân.
7
Các chiều của thay
đổi hành vi cá nhân
• Khả năng thay đổi
• Chiều sâu
• Thời gian
Sự hòa nhập
Đào tạo
Đầu ra
Sự thay đổi cá nhân
• Kết quả
• Hành vi
• Tính sáng tạo
• Tình cảm • Dự định thay đổi côn gviệc
Hành vi quản trị • Kết quả • Sựtận tâm
• Mong muốn
• Phản ứngvới thay đổi
Các chương trình thay
đổi tổ chức
Chiều sâu của thay đổi
Hơn 30 năm qua, Roger Harrison (1970) phổ biến sự quan tâm đến “chiều sâu của
thay đổi” trong nỗ lực để hiểu hơn về ảnh hưởng của những thay đổi có kế hoạch lên
tổ chức. Trong khi Harrision xem mức chiều sâu như là một biến ngoại cảnh miêu tả
một khía cạnh nhất định của một chương trình thay đổi, chúng ta vận dụng một thuật
ngữ tương tự để hiểu hơn về ảnh hưởng của tổ chức lên sự thay đổi hành vi cá nhân.
Với cụm từ “khả năng thay đổi”, sự thay đổi trong thái độ và tính cách cá nhân của
một nhân viên có thể khác nhau tùy thuộc vào sự thay đổi biên của họ. Ví dụ, đó có
thể là một thứ thay thế phần nào vài khía cạnh trong quy trình của thái độ đối với
công việc, đó có thể là một cái gì đó thay đổi hoàn toàn hành vi để hoàn thành nhiệm
vụ. Tương tự như thế, chúng ta có thể tưởng tượng ra một chương trình xã hội làm
như thế nào để phần nào thay thế một thái độ của nhân viên trong khi bỏ qua sự thay
đổi đột ngột những thái độ khác hoàn toàn không có tác dụng. Hơn nữa, một ảnh
hưởng có thể tạo nên một thay đổi sâu sắc ở vài đặc điểm của một cá nhân cụ thể lại
8
có ít ảnh hưởng đến cùng đặc điểm của một nhân viên khác. Điều này có nghĩa rằng
chúng ta cần một cách để nói về sự đầy đủ, mức độ phức tạp, và độ lớn của những
thay đổi cá nhân – đó là “chiều sâu”. Chúng ta đặt:
Mệnh đề 2: Chiều sâu của khả năng thay đổi cá nhân đòi hỏi bởi ảnh hưởng của một
tổ chức cụ thể (vd: một nỗ lực hòa nhập tổ chức, một chương trình đào tạo) điều chỉnh
ảnh hưởng của tổ chức lên sự thay đổi cá nhân.
Thời gian
Pettigrew, Woodman và Cameron (2001) đã tranh luận rằng sự chú ý đến thời gian là
rất cần thiết trong lý thuyết và nghiên cứu về quá trình thay đổi tổ chức. Thực vậy, để
nghiên cứu sâu về quy trình thay đổi nghĩa là chúng ta phải xem xét cả cá nhân, tập
hợp các hoạt động, các hành động, các sự kiện vì nó diễn ra theo thời gian. Cũng cùng
tranh luận đó cho quá trình thay đổi hành vi cá nhân. Do đó, chúng ta cần kết hợp
thước đo thời gian vào kiến thức chúng ta về sự thay đổi cá nhân.
Hơn nữa, từ quan điểm tương tác, chúng ta quan tâm đến ảnh hưởng qua lại giữa một
người trong một tình huống nhất định như một hành vi theo thời gian. Việc bao gồm
cả thước đo về mặt thời gian tạo cơ hội để tập trung vào quá trình thay đổi của cả cá
nhân và tổ chức, cũng phù hợp với khung phân tích của chúng ta. Một ví dụ về tầm
quan trọng của nghiên cứu sự thay đổi hành vi cá nhân và hành vi tổ chức theo thời
gian được đưa ra bởi Engleman và Van de Cen (2002). Sử dụng cả 2 phương pháp
định tính và định lượng, họ khám phá ra rằng cá nhân (bác sĩ, y tá và các nhân viên)
phản ứng lại sự thay đổi của tổ chức bên trong môi trường chăm sóc sức khỏe.
Engleman và Van de Ven không xem xét đến yếu tố đạo đức, tính xấu, tính hai mặt
của những người tham gia nghiên cứu trong suốt hành trình thay đổi, vì một số nhân
viên trở nên có quyền lực, một số khác lại bị mất quyền, trong khi có những người
khác rút khỏi quá trình thay đổi.
9
Tóm lại, quá trình thay đổi diễn ra trong bao lâu là biến chính yếu của mô hình chúng
ta.
Mệnh đề 3: Thời gian đòi hỏi bởi ảnh hưởng của một tổ chức cụ thể - độ dài của quá
trình thay đổi – điều chỉnh tác động của sự thay đổi cá nhân và sự thay đổi tổ chức.
Vai trò của tổ chức trong việc tạo nên sự thay đổi cá nhân
Một số trong những cách các tổ chức thay đổi nhân viên của họ là có mục đích và
theo chương trình cụ thể (ví dụ: một sự thay đổi theo chủ đích được thiết kế nhằm
tăng hiệu quả công việc), và một số còn lại là tình cờ (ví dụ: kết quả không mong đợi
của hành vi của cấp trên theo cấp dưới. trong hình 2.1, chúng ta đề nghị sự thay đổi cá
nhân được tạo ra bởi quá trình hòa nhập tổ chức tổ chức, bởi chương trình đào tạo
trong tổ chức, bởi nhiều hoạt động có kế hoạch khác nhau của tổ chức để cải tiến chức
năng của tổ chức, bởi hàng tỉ những tác động hằng ngày bắt nguồn từ những tiếp xúc
cá nhân với cấp trên. Những ảnh hưởng này có thể thay thế hành vi cá nhân và các
đặc điểm cá nhân khác nhau của nhân viên. Đó là những sự thay đổi mà chúng ta đang
định nghĩa là sự thay đổi cá nhân.
Một đặc tính cơ bản cơ bản của mô hình được lưu ý ở điểm này. Sự phù hợp hay
không phù hợp trong các nguồn ảnh hưởng của tổ chức này có thể có ảnh hưởng lớn
đến những cách ứng xử cá nhân đối với tổ chức đó. Ví dụ, quá trình hòa nhập tổ chức
và các chương trình đào tạo có thể gây ra sự thay đổi tương đồng trong tính cách và
hành vi cá nhân. Sự tác động qua lại giữa các sức ép tương đồng có thể gia tăng hiệu
quả tác động. Tương tự như vậy, những ảnh hưởng như thế này cũng có tác động ở
theo nhiều mục đích, giảm tiềm năng thay đổi. Thêm vào đó, các sức ép không phù
hợp có thể tạo ra các tình huống mâu thuẫn trong các nhân viện, vì thế dẫn đến nhiều
kết quả tiêu cực bao gồm tăng mức độ stress, làm giảm mức độ hài lòng trong công
việc, và sự yêu thích công việc. Hiểu được những phản ứng của cá nhân đối với các
tình huống khác nhau rất quan trọng. Chúng ta sẽ nói nhiểu hơn về sự phù hợp/không
10
phù hợp tiềm năng trong những ảnh hưởng này đối sau, khi chúng ta bàn về những áp
dụng cho việc nghiên cứu tổ chức và thực hành quản trị thay đổi.
Trong hình 2.1 chúng ta thừa nhận sơ đồ nghiên cứu trước bởi Ackerman và
Humpheys (1990) liên quan đến phân loại sự khác biệt cá nhân như nhận thức (khả
năng suy nghĩ, kiến thức), tình cảm (tính cách, thái độ) và mong muốn (động lực).
Cuối cùng, như đã phát biểu ở các vấn đề 1, 2, 3, chúng ta thừa nhận các chiều của
khả năng thay đổi, chiều sâu, thời gian điều chỉnh những ảnh hưởng của tổ chức lên
sự thay đổi cá nhân.
Chúng ta sẽ tìm hiểu từng phần trong 4 nhóm nhân tố chính của tổ chức có ảnh hưởng
lên sự thay đổi của cá nhân lần lược trong những phần sau trong chương này.
Sự hòa nhập tổ chức
Sự hòa nhâp tổ chức có thể được mô tả như là một quá trình thay đổi (Fisher, 1986).
Quá trình này được xem là diễn ra trong các giai đoạn khác nhau (Feldman, 1976;
Louis, 1980; Van Maanen, 1975) sử dụng một loạt các phương cách (Văn Maanen và
Schein, 1979) để giải quyết các nhu cầu có nội dung khác nhau (Chao, O'Leary-Kelly,
Wolf, Klein, và Gardner, 1994). Trong số các kết quả của sự thay đổi cá nhân, bị ảnh
hưởng bởi sự hòa nhập tổ chức, là thay đổi trong sự hài lòng công việc, sự tận tâm, tỉ
lệ thay thế công nhân, sự đổi mới vai trò, học tập, thành tích công việc, sự rõ ràng của
vai trò, áp lực của vai trò, vân vân (Bauer, Morrison, và Callister, 1998). Vì vậy, sự
hòa nhập tổ chức được xem là một hiện tượng quan trọng và rất phức tạp.
Thông thường, nghiên cứu sự hòa nhập tổ chức xác định những nhân viên mới đối với
một tổ chức theo quan điểm nhân viên mới thực hiện vai trò của họ như thế nào. Tuy
nhiên, Ashforth và Saks (1996) giới thiệu một cái nhìn sâu sắc về hiểu biết vai trò của
11
sự hòa nhập trong việc tạo ra thay đổi thực tế đối với cá nhân. Họ cho rằng các tài liệu
nói về sự hòa nhập đã bỏ sót khi chuyển qua xác định những thay đổi theo cách thức
một nhân viên mới thực hiện một vai trò để kiểm tra sự thay đổi của nhân viên mới.
Họ định nghĩa sự thay đổi con người trong bối cảnh điều chỉnh công việc như thay đổi
trong giá trị, thái độ, tính cách, và kế hoạch nghề nghiệp của nhân viên. Căn cứ vào
những khía cạnh cốt lõi của bản chất con người, chẳng hạn như giá trị và tính cách, là
khá bền vững trước những thay đổi, họ cho rằng sự hòa nhập tổ chức chủ yếu ảnh
hưởng đến các yếu tố không bền vững.
Bauer et al. (1998) đồng tình và cho rằng sự hòa nhập tổ chức có tác động mạnh, lâu
dài đến hành vi của nhân viên ở lại với tổ chức. Xét về hành vi, sự hòa nhập tổ chức
có một khả năng hướng dẫn người mới làm thế nào để tiếp cận nhiệm vụ công việc.
Các phương pháp gì được sử dụng? Những nguồn lực nào? Chắc chắn rằng, một trong
những khía cạnh chính của bất kỳ quá trình hòa nhập tổ chức nào là huấn luyện nhân
viên mới các kỹ năng. Sự hòa nhập tổ chức cũng có khả năng ảnh hưởng đến cảm xúc
nhân viên mới. Ví dụ, Louis, Posner, và Powell (1983) thấy rằng quá trình tương tác
với bạn bè, người giám sát, và đồng nghiệp cấp cao là việc thực hành sự hòa nhập tổ
chức quan trọng nhất, và có ảnh hưởng tích cực đến các thái độ đối với công việc của
nhân viên mới. Ngoài những thái độ quan trọng này ra, còn có khía cạnh nhận thức
của sự hòa nhập tổ chức: cách thức nhân viên mới hình thành sự hiểu biết về vai trò
mới và tổ chức mới của họ. Đến một mức độ mà các yếu tố hữu hình (ví dụ: mục
đích) và các yếu tố vô hình (ví dụ, biểu hiện và những câu chuyện về văn hóa) ở nơi
làm việc được kết hợp, các nhân viên sẽ bắt đầu hình thành một sự hiểu biết cá nhân
về công việc của họ, đồng nghiệp của họ, và tổ chức của họ (Louis, 1980). Xét về
động lực thúc đẩy, thay đổi nhận thức có thể xem là quan trọng nếu sự hòa nhập tổ
chức có xu hướng bị giới hạn trong một khoảng thời gian. Số lượng động lực thúc đẩy
mà các nhân viên có được trong quá trình hòa nhập sẽ được dùng như một nền tảng
cho họ phát triển. Ví dụ, trong quá trình hòa nhập tổ chức, đầu tiên, các nhân viên tìm
12
hiểu về các loại mục tiêu mà định hướng công việc của họ cũng như bản chất của mối
quan hệ nổ lực – kết quả trong tổ chức.
Khi xem xét sự hòa nhập tổ chức như là yếu tố tác động hiển thị trong hình 2.1, rõ
ràng rằng việc hòa nhập tổ chức là tác nhân chính của sự thay đổi cá nhân. Như đã đề
cập trước đây, một số đặc điểm cá nhân dễ dàng thay đổi hơn những yếu tố khác (ví
dụ, Caspi và Roberts, 1999). Trong số những đặc điểm có thể thay đổi, sự hòa nhập tổ
chức tạo ra một cơ hội duy nhất để uốn nắn cá nhân theo cách thức hỗ trợ nhân viên
mới cũng như tổ chức. Xem xét kết cấu các yếu tố tinh thần của nhân viên đối với sự
hiểu biết công việc của họ và tổ chức: không có thời gian nào thuận lợi hơn thời gian
hòa nhập, tổ chức sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng đến nhận thức của nhân viên, khi
nhân viên phát triển vai trò của mình, các yếu tố tinh thần trở nên chắc chắn và bền
v