Tiểu luận Hiệp định SCM và thực trạng áp dụng vào Việt Nam

Trong thư¬ơng mại quốc tế, trợ cấp luôn đư¬ợc các quốc gia quan tâm vì thông qua trợ cấp chính phủ sẽ giúp cho những nhà sản xuất, đặc biệt là những nhà sản xuất hàng xuất khẩu của n¬ước mình có sức cạnh tranh mạnh hơn so với những nhà sản xuất nư¬ớc khác khi không đ¬ược trợ cấp. Tuy nhiên, việc tạo ra sức cạnh tranh thông qua trợ cấp chính là hành vi “bóp méo” bản chất tự nhiên của th¬ương mại. Vì vậy, trong thư¬ơng mại quốc tế, trợ cấp thường bị coi là hành vi bất hợp pháp. Nội dung pháp lý về trợ cấp đư¬ợc đề cập trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế, đặc biệt là đ¬ược ghi nhận trong nhiều Hiệp định trong khuôn khổ của WTO. Ví dụ vấn đề trợ cấp trong thư¬ơng mại quốc tế đã được đề cập trong GATT 1947, Bộ Luật Trợ cấp 1979, Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM), Hiệp định về Nông nghiệp (Hiệp định AoA). Nhìn chung vấn đề trợ cấp đ¬ược áp dụng ở hai lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Bên cạnh đó, để hạn chế tác động tiêu cực của trợ cấp trong th¬ương mại quốc tế, các quốc gia thường áp dụng các biện pháp đánh thuế đối với các sản phẩm đ¬ược trợ cấp. Thuế này được gọi là thuế đối kháng. Trong khuôn khổ của WTO, việc đánh thuế đối kháng được tiến hành trên cơ sở các quy định của hai Hiệp định chính là Hiệp định SCM và Hiệp định AoA, trong đó hiệp định SCM được áp dụng cho lĩnh vực phi nông nghiệp.

doc20 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3729 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệp định SCM và thực trạng áp dụng vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỤC LỤC 3 LỜI MỞ ĐẦU 4 I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH SCM 5 1.1. Hoàn cảnh ra đời và mục tiêu của hiệp định SCM 5 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời 5 1.1.2. Mục tiêu của hiệp định SCM 6 1.2. Các nội dung chủ yếu của hiệp định SCM 6 1.3. Vai trò của hiệp định SCM đối với các thành viên của WTO 9 1.3.1. Vai trò của trợ cấp 9 1.3.2. Vai trò của các biện pháp đối kháng 10 II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM 11 2.1. Thực tiễn áp dụng hiệp định SCM tại Việt Nam 11 2.2. Thuận lợi và khó khăn khi áp dụng SCM tại Việt Nam 13 2.2.1. Khó khăn 13 2.2.2. Thuận lợi 14 III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM 16 3.1. Xu hướng giải pháp chung 16 3.2. Một số biện pháp cụ thể 18 KẾT LUẬN 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 LỜI MỞ ĐẦU Trong thương mại quốc tế, trợ cấp luôn được các quốc gia quan tâm vì thông qua trợ cấp chính phủ sẽ giúp cho những nhà sản xuất, đặc biệt là những nhà sản xuất hàng xuất khẩu của nước mình có sức cạnh tranh mạnh hơn so với những nhà sản xuất nước khác khi không được trợ cấp. Tuy nhiên, việc tạo ra sức cạnh tranh thông qua trợ cấp chính là hành vi “bóp méo” bản chất tự nhiên của thương mại. Vì vậy, trong thương mại quốc tế, trợ cấp thường bị coi là hành vi bất hợp pháp. Nội dung pháp lý về trợ cấp được đề cập trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế, đặc biệt là được ghi nhận trong nhiều Hiệp định trong khuôn khổ của WTO. Ví dụ vấn đề trợ cấp trong thương mại quốc tế đã được đề cập trong GATT 1947, Bộ Luật Trợ cấp 1979, Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM), Hiệp định về Nông nghiệp (Hiệp định AoA)... Nhìn chung vấn đề trợ cấp được áp dụng ở hai lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Bên cạnh đó, để hạn chế tác động tiêu cực của trợ cấp trong thương mại quốc tế, các quốc gia thường áp dụng các biện pháp đánh thuế đối với các sản phẩm được trợ cấp. Thuế này được gọi là thuế đối kháng. Trong khuôn khổ của WTO, việc đánh thuế đối kháng được tiến hành trên cơ sở các quy định của hai Hiệp định chính là Hiệp định SCM và Hiệp định AoA, trong đó hiệp định SCM được áp dụng cho lĩnh vực phi nông nghiệp. Trong bối cảnh Việt Nam là Thành viên của WTO, nghiên cứu các qui định của Pháp luật Việt Nam về trợ cấp, bài tiểu luận lấy tên đề tài “Hiệp định SCM và thực trạng áp dụng vào Việt Nam” và có kết cấu ba phần. Phần mở đầu chủ yếu tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trợ cấp và các biện pháp đối kháng theo hiệp định SCM. Phần tiếp theo có nêu lên thực trạng áp dụng hiệp định SCM tại Việt Nam. Và ở phần cuối cùng, bài tiểu luận cũng đề xuất một số giải pháp để việc thực thi hiệp định này hiệu quả hơn trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay. I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH SCM 1.1. Hoàn cảnh ra đời và mục tiêu của hiệp định SCM 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Trong một thời gian dài trợ cấp được coi là một trở ngại lớn đối với một thị trường hiệu quả và tự do. Do đó, vấn đề trợ cấp đã được đưa vào những cuộc đàm phán đầu tiên của GATT. Cuối cùng, GATT đã đưa ra những quy định về những loại trợ cấp có tác động đến thương mại và đưa ra được phương thức để các thành viên GATT có thể đối phó với những gì mà họ cho là sự hỗ trợ của chính phủ gây tổn hại cho họ. Cách thức này được gọi là các biện pháp đối kháng. Trong vòng đàm phán Tokyo(1974-1979), vấn đề về sự nhất trí đặc biệt đối với cả hai điều khoản đó lần đầu tiên đã được nêu lên. Đối với nhiều nước đang phát triển, trợ cấp vẫn là một công cụ quan trọng để đẩy mạnh phát triển. Quan điểm một số nước đang phát triển cho rằng trợ cấp là một thành tố quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội đã đối nghịch lại với yêu cầu của các nước phát triển đòi phải có tính trung lập về cạnh tranh thương mại quốc tế. Những quan niệm đôi khi mâu thuẫn nhau của các nước phát triển cũng làm nặng nề thêm những vấn đề về chính sách thương mại. Các quy định của GATT cũng cho thấy là không thích hợp để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ trợ cấp. Bởi vậy, với tinh thần này, các cuộc đàm phán được bắt đầu bằng việc thỏa thuận về trợ cấp. Hiệp định đầu tiên có hiệu lực năm 1979 và chỉ có một số lượng hạn chế thành viên của GATT tham gia ký kết. Một đặc điểm quan trọng là trong cùng một hiệp định đã nêu lên cả vấn đề trợ cấp và những tác động có hại của trợ cấp đối với thương mại, cũng như khả năng bồi thường cho những tác động có hại mà trợ cấp gây ra thông qua cái gọi là các biện pháp đối kháng. Tuy nhiên, hiệp định này - một trong những kết quả của Vòng đàm phán Tokyo - đã chứng tỏ là rất không hiệu quả và khó diễn giải. Sự không rõ ràng của hiệp định đã dẫn đến xung đột và cáo buộc nhau về sự tuỳ tiện khi áp dụng trợ cấp của nhà nước và sử dụng các biện pháp đối kháng. Trong giai đoạn cuối của Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994), các bên đã chấp thuận một hiệp định mới với sự tham gia của tất cả các thành viên tương lai của WTO và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Tuy vậy, các điều khoản vẫn còn hạn chế khi quy định các điều kiện trợ cấp hàng hoá. Ngoài ra, còn có những ngoại lệ cho hàng nông sản và ngành hàng không dân dụng. Vấn đề này quy định đối với hỗ trợ và các biện pháp đối kháng liên quan đến dịch vụ vẫn chưa được giải quyết. Một Uỷ ban đặc biệt đã được thành lập để tư vấn cho những vấn đề liên quan đến việc vận dụng hiệp định này. 1.1.2. Mục tiêu của hiệp định SCM Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) ra đời với hai mục tiêu chính: thứ nhất, để điều chỉnh việc trợ cấp công trong nước của các thành viên; thứ hai, Hiệp định mô tả chi tiết những trợ cấp nào gây hại trực tiếp và gián tiếp hoặc được coi là phá vỡ ngành và/ hoặc lợi ích thương mại của một thành viên khác mà có thể là đối tượng áp dụng biện pháp đối kháng. Ngoài ra, Hiệp định SCM có thể làm giảm bớt đáng kể nguy cơ lạm dụng và đánh giá độc đoán trong việc sử dụng trợ cấp và cách thức điều tra trợ cấp. Điều này có lợi cho cả các nước đang phát triển và cả các nước phát triển. Đồng thời với một quy trình khai báo dẫn đến công khai hơn và kỷ cương hơn trong việc sử dụng trợ cấp và các biện pháp đối kháng. 1.2. Các nội dung chủ yếu của hiệp định SCM Hiệp định SCM bao gồm 9 phần chính, 36 điều khoản và 7 phụ lục. Trong khuôn khổ của Hiệp định SCM, trợ cấp được dựa trên ba điều kiện căn bản. Trước hết, trợ cấp phải được xuất phát từ một chính phủ hoặc một cơ quan nhà nước trong lãnh thổ của một thành viên WTO. Thứ hai, trợ cấp phải là một sự đóng góp tài chính. Sự đóng góp tài chính có thể là các khoản vay ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, giảm thuế, hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá, cũng như hàng hóa dịch vụ do nhà nước cấp ( ngoại trừ dành cho cơ sở hạ tầng của nhà nước ). Thứ ba, nguồn lợi phải được dành cho một bên tiếp nhận thong qua trợ cấp. Cụ thể, Hiệp định SCM quy định 3 loại trợ cấp như sau: Thứ nhất là trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau: khối lượng trợ cấp, theo luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại. Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp. Điểm nổi bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) nhanh gọn, và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm, ngay lập tức phải thu hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong thời gian quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa. Thứ hai là trợ cấp có thể đối kháng. Hiệp định quy định rằng không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng  trợ cấp gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một Thành viên khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và gây tổn hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác. “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phẩm vượt quá 5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại. Những thành viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực này. Thứ ba là trợ cấp không thể đối kháng, có thể là trợ cấp không mang tính chất riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay  các quy định đặt ra. Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu cầu đưa ra phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này. Một phần của hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Hiệp định đưa ra những quy chế về việc khởi tố các vụ đối kháng, về việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và những quy định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có thể đưa ra thông tin và quan điểm của mình.  Những quy định cụ thể về việc tính toán tổng số trợ cấp là cơ sở để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Hiệp định quy định rằng tất cả các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong quá trình đánh giá tình trạng của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và những thiệt hại suy đoán. Việc điều tra đối kháng phải dừng ngay khi  mức trợ cấp nằm dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là không đáng kể. Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng. Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5 năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn trợ cấp và thiệt hại. Hiệp định này cũng công nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và hưởng  miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối vớ các nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiều lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này được hưởng sự miễn trừ đối với trợ cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định ( khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời gian của các nước kém phát triển hơn). Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực. Theo hiệp định SCM, trong quá trình đàm phán các quy tắc đặc biệt đối với ngành hàng không dân dụng, các sản phẩm hàng không dân dụng không tuân theo giả định rằng việc trợ cấp theo giá trị vượt quá 5% gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của các nước thành viên. Ngoài ra, hiệp định cũng quy định rằng việc hoàn trả tài chính trong lĩnh vực hàng không dân sự phụ thuộc vào mức độ doanh số sản phẩm bán ra và doanh thu dưới mức mong đợi, bản thân điều này không suy đoán gây thiệt hại nghiêm trọng. 1.3. Vai trò của hiệp định SCM đối với các thành viên của WTO 1.3.1. Vai trò của trợ cấp Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra. Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên ngoài thay vì tự cố gắng sản xuất và cung cấp những sản phẩm kém cạnh tranh với chi phí đầu tư tốn kém. Bên cạnh đó, trợ cấp làm cho hàng xuất khẩu của nước đó sang nước khác (nước nhập khẩu) có lợi thế cạnh tranh hơn.Và đồng thời trợ cấp cũng làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này. 1.3.2. Vai trò của các biện pháp đối kháng Các biện pháp đối kháng hay cũng chính là các biện pháp chống trợ cấp, theo GATT, là biện pháp cứu trợ được một nước thực hiện do họ phải chịu thiệt hại vì nước khác thực hiện trợ cấp gây ra. Cụ thể hơn, GATT quy định rằng, khi hàng nhập khẩu được sản xuất với sự trợ cấp thì bên nhập khẩu có quyền thu thuế chống trợ cấp hoặc những biện pháp cứu trợ khác. Thuế chống trợ cấp là loại thuế đặc biệt được thu nhằm mục đích hạn chế việc trợ cấp cho hàng hoá trong khâu chế tạo, sản xuất và xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp còn được gọi là thuế bồi hoàn hay thuế trả đũa. Khi hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất, gia công chế tạo, vận chuyển, mua bán, đều khiến cho chính phủ nước nhập khẩu có lý do để thu thuếù chống trợ cấp đối với những   hàng hoá này. Việc thu thuế chống trợ cấp cần phaỉ tuân thủ nguyên tắc, kim ngạch thu thuế không được vượt quá mức trợ cấp. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu của các nước xuất khẩu là để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá ở nước ngoài. Mục đích của việc thu thuế chống trợ cấp của nước nhập khẩu lại là để những hàng hoá được trợ cấp mất khả năng cạnh tranh. Giá thành của hàng hoá nhập khẩu sau khi bị đánh thuế chống trợ cấp sẽ tăng lên, và như vậy sẽ làm giảm hiệu quả của khoản trợ cấp mà hàng hoá này nhận được, từ đó làm giảm  khả năng cạnh tranh, khiến cho chúng không thể được bán với giá thành thấp hoặc bán phá giá trên thị trường của nườc nhập khẩu. II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực tiễn áp dụng hiệp định SCM tại Việt Nam Nhằm thực hiện Hiệp định SCM, Việt Nam đã đưa ra 17 chương trình trợ cấp, cụ thể: 1- Ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm cơ khí, điện và điện tử (QĐ 1944/1998/QĐ-BTC ngày 25/12/1998, Thông tư 176/1998) 2- Hỗ trợ triển khai thực hiện các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp trọng điểm (QĐ 37/2000/QĐ-TTg ngày 24/3/2000, QĐ 19/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 và một số thông tư hướng dẫn) 3- Ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu (Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998, Nghị định 51/1999/NĐ-CP, Nghị định 35/2002/NĐ-CP, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 164/2003/NĐ-CP) 4- Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư (không dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tiêu chí sử dụng nguyên liệu trong nước) (Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, nhiều Nghị định) 5- Ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003) 6- Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư (không dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tiêu chí sử dụng nguyên liệu trong nước) (Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và một số Nghị định) 7- Ưu đãi về tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí xuất khẩu (Nghị định 43/1999/NĐ-CP, Nghị định 106/2004/NĐ-CP, Qđ 133/2001/QĐ-TTg, QĐ 80/2002/QĐ-TTg) 8- Ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất (NĐ 43/1999/NĐ-CP, Nghị định 106/2003/NĐ-CP) 9- Các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển khác của nhà nước (không thuộc nhóm ưu đãi tín dụng để phục vụ xuất khẩu hoặc nội địa hoá sản xuất trong nước) 10- Hỗ trợ phát triển ngành dệt may thực hiện Chíên lược phát triển ngành dệt may Việt Nam thời kỳ đến năm 2000 (QĐ 55/2001/QĐ-TTg, QĐ 17/2002/QĐ-TTg) 11- Hỗ trợ xuất khẩu thông qua thưởng xuất khẩu (QĐ 1116/2003/QĐ-BTM và QĐ 1462/2003/QĐ-BTM) 12- Hỗ trợ xúc tiến thương mại thông qua hỗ trợ tìm kiếm thị trường và hỗ trợ kinh phí thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại khác 13- Hỗ trợ đối với mặt hàng cơ khí 14- Hỗ trợ đối với ngành công nghiệp đóng tàu 15- Hỗ trợ phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc 16- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do các nguyên nhân khách quan 17- Khuyến khích đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ Với sản phẩm phi nông nghiệp, trong suốt 12 năm đàm phán, Việt Nam đã kiên trì thuyết phục các thành viên WTO cho Việt Nam hưởng ngoại lệ của Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) nhưng do đàm phán gia nhập là đàm phán một chiều, các nước mới gia nhập trước đó đều không đòi được ngoại lệ nên cuối cùng Việt Nam đã cam kết như sau: a. Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước Bộ Tài chính đã có Quyết định số 43/2006/QĐ-BTC ngày 29/8/2006 về việc bãi bỏ chính sách thuế theo tỉ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm, phụ tùng thuộc ngành cơ khí-điện-điện tử quy định tại các Thông tư liên tịch số176/1998/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 25/12/1998, thông tư liên tịch số 120/2000/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 25/12/2000 và Quyết định số 1944/1998/QĐ-BTC ngày 25/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/2006. Ngoài ra Bộ Tài chính nhận được một số kiến nghị giảm thuế đối với nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất phụ tùng cơ khí, điện, điện tử (nguyên liệu nhựa, thép… ) và kiến nghị giảm thuế đố
Luận văn liên quan