Nếu ko có thỏa thuận khác thì những bất đồng giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước nhận đầu tư thông
thườngsẽ được Tòa án (trong nước) của nước nhận đầu tư giải quyết. Nhìn từ phía các nhà đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) thì cách giải quyết này có nhiều bất cập. Trong trường hợp này, dù đúng hay sai thì Tòa án của nước
nhận đầu tư cũng không được cho là đủ công bằng vô tư. Hơn nữa, Toà án trong nước có nghĩa vụ phải áp
dụng Luật trong nước ngay cả khi Luật này không bảo vệ lợi ích của nhà ĐTNN như ở Luật quốc tế. Thêm
vào đó, Tòa án thông thườngthường thiếu những kĩ thuật chuyên môn cần thiết để giải quyết những tranh
chấp kinh tế quốc tế phức tạp.
8 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2279 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệp ước về giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia và pháp nhân thuộc quốc gia khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Hiệp ước về giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia và pháp nhân thuộc quốc gia khác
Tổng quan:
Bản Module này giới thiệu chung về những thỏa thuận về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo ICSID
Bản Module này cũng đưa ra khung của 1 số biện pháp giải quyết tranh chấp đầu tư truyên thống giữa nhà
ĐTNN và nc nhận đầu tư, và phân tích những yếu điểm của các biện pháp đó.
Bản Module này giải thích nguồn gốc, lịch sử của HƯ ICSID và tại sao những điều khoản của HƯ này lại
bảo vệ lợi ích nhà ĐTNN cũng như nc nhận đầu tư.
Nó cũng đưa ra những ng tắc cơ bản trong HƯ ICSID
Các cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư, thương mại
Toà án của nước được đầu tư:
Nếu ko có thỏa thuận khác thì những bất đồng giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước nhận đầu tư thông
thường sẽ được Tòa án (trong nước) của nước nhận đầu tư giải quyết. Nhìn từ phía các nhà đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) thì cách giải quyết này có nhiều bất cập. Trong trường hợp này, dù đúng hay sai thì Tòa án của nước
nhận đầu tư cũng không được cho là đủ công bằng vô tư. Hơn nữa, Toà án trong nước có nghĩa vụ phải áp
dụng Luật trong nước ngay cả khi Luật này không bảo vệ lợi ích của nhà ĐTNN như ở Luật quốc tế. Thêm
vào đó, Tòa án thông thường thường thiếu những kĩ thuật chuyên môn cần thiết để giải quyết những tranh
chấp kinh tế quốc tế phức tạp.
Tòa án của các nước khác:
Tòa án của các nước khác thường không phải một sự lựa chọn thiết thực. Trong hầu hết mọi trường hợp,
họ sẽ không có thẩm quyền giải quyết những vụ việc đầu tư nằm ngoài lãnh thổ nước mình. Ngay cả trong
trường hợp nước nhận đầu tư đồng ý với những điều khoản của Tòa án nước đầu tư hay Tòa án nước thứ ba.
Sự bảo vệ ngoại giao:
Bảo vệ ngoại giao là biện pháp thường được sử dụng để giải quyết bất đồng về đầu tư, được thực hiện
thông qua đàm phán hoặc qua kiện tụng giữa 2 nước đầu tư và nhận đầu tư trước khi đưa ra Tòa án quốc tế
hay Trọng tài. Biện pháp này cũng có 1 số yếu điểm như: biện pháp này chỉ được thi hành khi thấy là cần
thiết, và các nhà ĐTNN ko có quyền sử dụng; Bảo vệ ngoại giao ko phổ biến ở những nước ko thi hành biện
pháp này, và có thể dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ ngọa giao các nước có liên quan.
Trọng tài phân xử:
Trọng tài quốc tế thường giải quyết tranh chấp tích cực hơn so với Tòa án trong nước và biện pháp bảo vệ
ngoại giao. Trọng tài quốc tế cũng thường tốn ít chi phí và có hiệu quả hơn Tòa án thông thường. Các bên có
quyền lựa chọn trọng tài đủ chuyên môn.
Trọng tài đặc nhiêm:
Nếu biện trọng tài ko được bởi cơ quan trọng tài chuyên biệt thì vụ việc sẽ được chuyển cho trọng tài đặc
nhiệm giải quyết. Trọng tài đặc nhiệm yêu cầu một bản thỏa thuận trọng tài (compromis) quy định các vấn đề
: chọn lựa trọng tài, Luật áp dụng, và một số các vấn đề thủ tục.
Tóm tắt:
1. Tòa án của nước nhận đầu tư thường không được coi là đảm bảo đủ công bằng cho các nhà
ĐTNN.
2. Tòa án của nước đầu tư cũng như của nước thứ ba thường ko giải quyết được tranh chấp đầu tư.
3. Bảo vệ đầu tư là một biện pháp để giải quyết tranh chấp đầu tư. Tuy nhiên biện pháp này không
đảm bảo cho nhà ĐTNN và cũng không thuận tiện cho nước nhận đầu tư.
4. Trọng tài đặc nhiệm được thảo thuận giữa nhà ĐTNN và nước nhận đầu tư là sự lựa chọn hữu
hiệu, tuy nó bao gồm nhiều thủ tục rườm rà.
ICSID
1. Lịch sử ra đời của ICSID
- Khâu chuẩn bị và sự ra đời
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư, thương mại được đề xuất bởi WB
+ Hiệp ước ICSID được soạn thảo từ năm 1961-1965
+ Thông qua ngày 18/3/1965 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 14/10/1966
- Trở thành một cơ quan và sự tham gia
+ đầu tiên Hiệp ước này được phê chuẩn bởi 20 quốc gia đang phát triển ở châu Phi
+ ngày nay, 155 quốc gia đã ký hiệp ước ICSID, trong đó hiệp ước này đã có chính thức có
hiệu lực đối với 143 quốc gia
+ Đến nay trọng tài ICSID đã giải quyết được 158 vụ, 123 vụ đang trong quá trình xem xét
2. MỤC TIÊU CỦA ICSID
Mục tiêu quan trọng nhất của Hiệp ước là việc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế. Hiệp ước
ICSID có vai trò tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư tư nhân quốc tế thông qua việc tạo
ra các môi trường đầu tư ổn định và thuận lợi
So sánh với trọng tài ad hoc, Hiệp ước ICSID có nhiều ưu điểm hơn: nó đưa ra một hệ
thống giải quyết các tranh chấp gồm các điều khoản chung và nguyên tắc về thủ tục cũng
như các cơ quan hỗ trợ việc tranh tụng. Nó sẽ đảm bảo cho các tranh tụng không thất bại
và hỗ trợ việc công nhận và thực thi các phán quyết.
Trọng tài ICSID mang đến nhiều lợi ích chi nhà đầu tư cũng như quốc gia nhận đầu tư.
Lợi ích cho nhà đầu tư khá rõ ràng: nó có thể tiếp cận trực tiếp với một diễn đàn quốc tế có
hiệu quả khi có một tranh chấp xảy ra. Khả năng tìm đến trọng tài là một nhân tố quan
trọng trong an ninh pháp lý của một quyết định đầu tư.
Lợi ích của quốc gia nhận đầu tư nhiều hơn gấp đôi: nó sẽ cải thiện được môi trường đầu
tư của mình và thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, nhờ việc chấp nhận sự
phân xử của trọng tài ICSID mà quốc gia nhận đầu tư có thể tự bảo vệ mình khỏi những
hình thức kiện tụng nước ngoài hoặc quốc tế khác. Ngoài ra, quốc gia nhận đầu tư cũng tự
bảo vệ mình khỏi các biện pháp bảo hộ ngoại giao của quốc gia mà nhà đầu tư mang quốc
tịch.
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Cơ cấu của ICSID rất đơn giản chỉ gồm một Uỷ ban Hành chính và Ban thư kí
Uỷ ban Hành chính:
- Mỗi nước thành viên có một đại diện
- Tất cả các đại diện có quyền bình đẳng
- Chủ tịch WB giữ chức chủ tịch ICSID (ex officio president) nhưng không có quyền bỏ
phiếu
- Chủ tịch và thành viên HĐHC phục vụ mà không nhận được thù lao từ Trung tâm
- Các quyết định của HĐHC được thông qua dựa trên quá trình bỏ phiếu với đa số 2/3
- Chức năng chính của Hội đồng Hành Chính là bầu chọn ra Tổng thư ký, phó tổng thư ký,
thực hiện các quy định và luật lệ cho các cơ chế pháp lý và tiến hành các thủ tục tố tụng,
quản lý ngân sách, tổ chức hội nghị và phê chuẩn các báo cáo thường niên về hoạt động
của ICSID
Ban thư ký
- Ban thư ký gồm 1 Tổng thư ký, một Phó Tổng thư ký (Deputy not Vice) được bầu cử
thông qua đa số phiếu với tỷ lệ 2/3 với sự đề cử của Chủ tịch HĐHC, có nhiệm kỳ 6 năm,
có thể tái cử và hội đồng thư ký
- Tổng thư ký là đại diện pháp lý của ICSID, là người đứng đầu trung tâm, chịu trách
nhiệmvề các hoạt động hành chính của Trung tâm bao gồm việc triệu tập hội đồng thư ký
theo Hiệp ước ICSID và các quy định của HĐHC, giữ chức năng quản lý giấy tờ, sổ sách,
có quyền xác nhận các phán quyết trọng tài thực hiện theo Hiệp ước này.
- Phó tổng thư ký chịu trách nhiệm về hoạt động hàng ngày của ICSID, làm thay trách
nhiệm của Tổng thư ký khi Tổng thư ký vắng mặt hoặc không có khả năng giải quyết công
việc.
- Chức năng chính của ban thư ký là cung cấp hỗ trợ cho các giai đoạn khởi đầu và tiến hành
các thủ tục tố tụng ICSID; hỗ trợ pháp lý cho ban hoà giải, toà trọng tài, uỷ ban ad hoc, hỗ
trợ các hoạt động của chúng, và quản lý thủ tục tố tụng và chi phí tài chính của các vụ việc.
Ban Thư ký cũng hỗ trợ cho HĐHC.
- Ban Thư ký duy trì các danh sách hội thẩm Hoà giải viên, trọng tài viên mà mỗi nước
thành viên có thể đề cử 4 người, Chủ tịch HĐHC có thể đề cử 10 người. Các danh sách hội
thẩm này cung cấp một nguồn mà từ đó các bên tham gia tố tụng ICSID có thể chọn hoà
giải viên và trọng tài viên. Hơn nữa, trong trường hợp của HĐHC bổ nhiệm hoà giải viên,
trọng tài hoặc thành viên trong ủy ban ad hoc trong hoạt động tố tụng của ICSID, người
ứng cử viên phải được lấy từ danh sách hội thẩm này.
- Chi phí của Ban thư ký nằm ngoài ngân sách của Ngân hàng thế giới, mà dựa trên sự chi
trả của các bên tranh chấp.
4. THẨM QUYỀN
Thẩm quyền khởi kiện: Vì một trong những mục tiêu chính của Hiệp ước là đẩy mạnh một
dòng chảy lớn hơn vốn đầu tư tư nhân quốc tế, nên những cung cấp từ Hiệp ước đưa tới một
sự cân bằng được tính toán kĩ càng giữa lợi ích của nhà đầu tư và quốc gia sở tại. Do đó, Hiệp
ước cho phép cả các quốc gia lẫn nhà đầu tư có quyền đâm đơn kiện.
Thẩm quyền xét xử: Sự tham gia của Hiệp ước ICSID không tạo nên một thẩm quyền của
ICSID. Hiệp ước quy định: để xác lập một thẩm quyền, phải có sự công nhận bằng văn bản
viết của cả 2 bên trong tranh chấp.
Sự chấp nhận thẩm quyền của ICSID có thể được biểu thị bằng nhiều cách khác nhau. SỰ
chấp nhận đó có thể được quy định trong các thỏa thuận trực tiếp giữa nhà đầu tư và Quốc gia
nhận đầu tư. Bên cạnh đó, sự chấp nhận có thể được đưa ra thông qua một đề nghị của quốc
gia nhận đầu tư, nằm trong luật của nó hoặc trong một điều ước được chấp nhận bởi nhà đầu
tư.
Điều 25 Hiệp ước ICSID quy định
(1) Thẩm quyền của Tòa được mở rộng tới bất kỳ tranh chấp pháp lý nào liên quan đến một vụ việc đầu tư,
giữa Quốc gia ký kết (hoặc bất kỳ cơ quan cấp dưới nào của Quốc gia ký kết có liên quan đến Tòa) với
một pháp nhân của một Quốc gia ký kết khác, và hai bên tranh chấp đồng ý gửi một lá đơn đến Tòa. Khi
các bên đã gửi thư chấp thuận, không một bên nào có quyền rút đơn.
(2) Pháp nhân của một Quốc gia ký kết khác có nghĩa là:
(a) bất kỳ một người nào có quốc tịch của Quốc gia ký kết ngòai Quốc gia tranh chấp tại thời điểm hai bên
đồng ý đưa vụ tranh chấp lên Tòa để hòa giải hoặc xét xử, cũng như tại thời điểm đơn kiện được đăng ký
theo khoản (3) điều 28 hoặc khỏan (3) điều 36. Điều này không bao gồm những người mang quốc tịch của
Quốc gia ký kết tại 1 trong 2 thời điểm đã được đè cập ở phần trên của câu này; và
(b) Bất kỳ một pháp nhân pháp lý nào có quốc tịch của một Quốc gia ký kết ngòai Quốc gia tranh chấp tại
thời điểm hai bên đồng ý đưa tranh chấp chấp lên Tòa để hòa giải hoặc xét xử và bất kỳ một pháp nhân
pháp lý có quốc tịch của Quốc gia ký kết đang bị kiện, vì chịu sự điều chỉnh theo tư cách người nước
ngoài, các bên đã tham gia phải được đối xử như một pháp nhân của Quốc gia ký kết khác, theo mục đích
của Hiệp ước này.
(3) Việc chấp nhận của một cơ quan cấp dưới của Quốc gia ký kết cần phải được sự chấp thuận của Quốc gia
đó, trừ trường hợp Quốc gia thông báo với Tòa rằng không cần phải chấp thuận.
(4) Bất kỳ một Quốc gia ký kết nào, tại thời điểm được phê chuẩn, chấp nhận hoặc thông qua Công ước này
hoặc bất kỳ thời điểm nào sau đó, có thể thông báo cho Tòa cấp hoặc các cấp của tranh chấp mà có thể
hoặc không cần thiết phải xem xét để đưa lên Tòa. Tổng TK sẽ ngay lập tức gửi những thông báo trên cho
tất cả các Quốc gia thành viên khác. Những thư thông báo này không ủy nhiệm theo đơn kiện ghi ở khỏan
(1).
Điều 26
Đơn kiện hoặc thư chấp thuận xét xử của các bên theo Công ước này sẽ được xem như chấp thuận tham
gia vào các vụ việc có liên quan hoặc hậu quả của vụ kiện này. Một Quốc gia thành viên có thể sẽ cần đến sự
không có khả năng xét xử của các cơ quan chức trách địa phương hoặc tòa án quốc gia như một điều kiện để tham
gia xét xử theo Công ước này.
Điều 27
(1) Các quốc gia thành viên không được bảo hộ ngoại giao, hoặc gửi một lời phê phán quốc tế nào, trên tinh
thần tôn trọng tranh chấp giữa một trong những pháp nhân của chính quốc gia đó với Quốc gia thành viên
khác, mà hai bên đã đồng ý gửi hoặc đã gửi đơn kiện theo Công ước này; trừ khi một trong các Quốc gia
thành viên trên không tuân thủ hoặc tuân theo phán quyết của Tòa trong cuộc tranh chấp.
(2) Bảo hộ ngoại giao, trong trường hợp được nêu ở khoản (1), không bao gồm các cuộc trao đổi ngoại giao
không chính thức để giải quyết tranh chấp một cách dễ dàng hơn.
Thẩm quyền tư vấn: Tư vấn từ ICSID là một trong những cơ quan trọng tài tốt nhất mà Hiệp
ước về ICSID mang lại. ICSID đã thực hiện một số chức năng tư vấn liên quan đến xét xử.
5. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG:
Hiệp ước ICSID không có bất kỳ nguyên tắc độc lập nào. Nó chỉ đưa ra thủ tục để giải quyết các
tranh chấp đầu tư. Bất kỳ một nỗ lực nào để thiết lập một luật quốc tế trong khuôn khổ của Hiệp
ước đều dẫn đến vô số khó khăn khó lòng khắc phục được.
a. Các lựa chọn phương thức giải quyết
Hiệp ước ICSID đưa ra 2 phương thức giải quyết tranh chấp: hòa giải hoặc trọng tài. Hòa giải là
một biện pháp linh hoạt để hỗ trợ các bên đi đến một thỏa thuận cuối cùng. Hòa giải kết thúc
bằng một biên bản báo cáo đề xuất một giải pháp không có tính ràng buộc đối với các bên. Bởi
thế, biện pháp này phụ thuộc vào tính tự nguyện hợp tác của cả 2 bên.
Trọng tài là biện pháp chính thống hơn. Tuy nhiên, một số vụ việc do trọng tài giải quyết đã kết
thúc với một thỏa thuận cuối cùng giữa các bên. Nếu không đi đến được thỏa thuận đó, kết luận
sau cùng sẽ là một quyết định mang tính ràng buộc đối với cả 2 bên.
Trong thực tiễn, biện pháp trọng tài thường được sử dụng nhiều hơn so với biện pháp hòa giải.
Hầu hết các case đưa lên ICSID đều liên quan đến trọng tài. Trong thực tế, biện pháp hòa giải
theo Hiệp ước ICSID thường rất hiếm một phần là bởi việc lựa chọn đều do bên bắt đầu vụ kiện
thực hiện. Có vẻ như hướng các nỗ lực cần thiết và tiền bạc vào một vụ kiện để đi đến quyết định
mang tính ràng buộc cuối cùng luôn là một quyết định khôn ngoan hơn.
b. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực tranh chấp đầu tư
Hiệp ước ICSID chuyên trách trong việc giải quyết các tranh chấp đầu tư. Bởi thế, sự tồn tại của
một tranh chấp pháp lý nảy sinh trực tiếp từ một hoạt động đầu tư là điều kiện tiên quyết cho
thẩm quyền giải quyết của ICSID. Khái niệm Investment không được định nghĩa trong Hiệp ước.
Rất nhiều Hiệp định đầu tư song phương BIT và hiệp định đa phương đã đưa ra các định nghĩa về
hoạt động đầu tư. Tuy nhiên các định nghĩa này không ảnh hưởng đến nghĩa của khái niệm này
trong Hiệp ước ICSID. Ví dụ như một số hiệp định mở rộng quyền ra việc thiết lập hoạt động đầu
tư, tuy nhiên, Hiệp ước ICSID chỉ được áp dụng một khi hoạt động đầu tư đã được tiến hành.
Trong thực tiễn hiện tại, khái niệm Investment đã mang nghĩa rộng hơn. Nhiều hoạt động trong
nhiều lĩnh vực kinh tế được chấp nhận như là các hoạt động đầu tư. Bên cạnh các hoạt động đầu
tư truyền thống đặc thù, hoạt động đầu tư còn mở rộng ra các công cụ tài chính đơn thuần như
việc giao dịch Trái phiếu chính phủ hoặc việc gia hạn nợ. Các tiêu chuẩn mang tính quyết định là
một thời hạn cụ thể của các hoạt động có liên quan, lợi nhuận đều, sự tồn tại của một nguy cơ
kinh tế nào đó, một trách nhiệm quan trọng cũng như việc dự án có liên quan đến sự phát triển
của quốc gia nhận đầu tư.
c. Luật áp dụng
Tuy nhiên, Hiệp ước ICSID lại chứa đựng một nguyên tắc về luật áp dụng. Nói cách khác, nó
hướng dẫn Tòa tìm ra các nguyên tắc để áp dụng cho từng tranh chấp cụ thể. Tòa có nhiệm vụ
tuân theo các lựa chọn về luật mà các bên tranh chấp đã thỏa thuận. Trong trường hợp không có
lựa chọn về luật được thỏa thuận, Tòa sẽ áp dụng luật của quốc gia nhận đầu tư và luật quốc tế.
Vấn đề lựa chọn luật đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa. Việc áp dụng một hệ
thống chuẩn xác hoặc một hệ thống luật là một yêu cầu cơ bản cho một phán quyết hợp pháp.
Thất bại trong việc áp dụng luật phù hợp bị coi như sự lạm quyền và có thể dẫn đến việc hủy bỏ
một phán quyết.
Với việc áp dụng luật quốc tế, Tòa có thể áp dụng các hiệp ước, đặc biệt là các BITs cũng như
Luật tập quán quốc tế. Nhũng nguyên tắc chung của luật và các thực tiễn pháp lý, đặc biệt là
trong các tòa ICSID trước, cũng đóng một vai trò quan trọng.
Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật trong nước đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
của ICSID. Các tòa của ICSID khi sử dụng cả 2 hệ thống luật cần chú ý rằng luật của quốc gia
nhận đầu tư là không thể thiếu được nhưng luật quốc tế cũng đóng một vai trò bổ trợ và hiệu
chỉnh.
Một tòa có thể quyết định ex aequo et bono (hành động dựa trên nguyên tắc công bằng) nếu có sự
ủy quyền của các bên tranh chấp.
d. Các bên tham gia
Các vụ kiện theo Hiệp ước đều là các vụ kiện hỗn hợp giữa một bên (quốc gia nhận đầu tư) phải
là một quốc gia thành viên của Hiệp ước và một bên (nhà đầu tư) là một cá nhân hoặc chủ thể của
một quốc gia thành viên khác của Hiệp ước. Bất kỳ bên nào cũng có thể bắt đầu một vụ kiện.
Các quốc gia có thể ủy quyền cho các cơ quan, cục, sở…đại diện cho mình với tư cách là một bên
trong tranh chấp trong vụ kiện tại ICSID.
Nhà đầu tư có thể là cá nhân ( thể nhân) hoặc một công ty hay một thực thể tương đương (pháp
nhân). Cả 2 loại chủ thể trên đều phải đạt được yêu cầu về quốc tịch của Hiệp ước.
Cả quốc gia nhận đầu tư và quốc gia mà nhà đầu tư mang quốc tịch đều bắt buộc phải là thành
viên của Hiệp ước, có nghĩa là đã phê chuẩn Hiệp ước ICSID. Nếu một trong hai bên trong tranh
chấp không phải là quốc gia thành viên của Hiệp ước, ICSID không có thẩm quyền nhưng
Additional Facility có thể can thiệp.
Một điều kiện khác là nhà đầu tư không mang quốc tịch của quốc gia nhận đầu tư. Nếu một nhà
đầu tư nước ngoài hoạt động thông qua một công ty được đăng ký tại quốc gia nhận đầu tư, cả
nhà đầu tư và quốc gia nhận đầu tư có thể đồng ý với nhau rằng công ty đó sẽ được đối xử như
nhà đầu tư nước ngoài theo điều 25(2)(b) của Hiệp ước.
e. Tính độc lập và Tự nhiên của việc Xét xử
Xét xử một cách độc lập
ICSID xét xử các vụ kiện một cách động lập. Điều này có nghĩa là họ không phụ thuộc vào sự
can thiệp của bất kỳ thế lực bên ngoài nào. Ngoài ra, Tòa án quốc gia cũng không ảnh hưởng tới
việc xét xử của ICSID dưới bất kỳ hình thức nào. Tòa án quốc gia có thể yêu cầu những hình phạt
tạm thời trong trường hợp các bên đồng ý.
Tòa án ICSID phải tìm ra các bằng chứng mà không dựa vào sự giúp đỡ pháp lý của các Tòa án
quốc gia. Bất kỳ một tài liệu thẩm vấn nào của ICSID có được nhờ Tòa án quốc gia đều không
hợp lệ.
Không làm thất vọng trong quá trình xét xử
Những vụ kiện của ICSID không thể bị đe dọa bằng việc bất hợp tác của các bên. Các bên có thể
linh hoạt trong việc gây ảnh hưởng lên vụ kiện. Nhưng nếu một trong các bên bất hợp tác, vụ
kiện vẫn không bị ngừng lại. Hiệp ước đã đưa ra một hệ thống chặt chẽ để chống lại việc bất hợp
tác. Tòa án, nếu không được chỉ định bởi các bên, sẽ được chỉ định bởi Trung tâm. Quyết định
luôn đi kèm với vụ kiện. Việc không đưa ra bản memorial (ghi nhớ) hay không có mặt để nghe
Quyết định của Tòa thì cũng không làm gián đoạn vụ kiện.
6. Tính hiệu quả của Hệ thống
Tính hiệu quả
Hệ thống Tòa án này có hiệu quả rất cao. Tính hiệu quả là kết quả của nhiều nhân tố. Việc đưa
đơn kiện lên ICSID là hòan tòan tự nguyện, nhưng một khi đã đưa lên thì không thể rút lại với bất
kỳ lý do nào. Điều luật về không làm thất vọng có nghĩa là vụ kiện sẽ được xét xử cho dù bất kỳ
bên nào không hợp tác. Chỉ một điều này cũng là một đặc điểm lớn để các bên phải hợp tác.
Tính ràng buộc của quyết định
Các quyết định được đưa ra và hòan thành và không cần phải xem xét lại, trừ một vài trường hợp
chính Tòa án ICSID muốn xem lại. Việc một quốc gia không phục tùng một quyết định của tòa
án sẽ được coi là vi phạm, và có thể dẫn đến bảo hộ ngoại giao cho nhà đầu tư khỏi quốc gia liên
quan.
Tính cưỡng chế của quyết định.
Tòa mang tới một hệ thống hiệu quả về cưỡng chế. Những quyết định đều được coi như là chung
thẩm đối với tất cả các bên. Những hình phạt tài chính từ vụ kiện đều được cưỡng chế, như hình
phạt cuối cùng của tòa án quốc gia. Các tòa án quốc gia không có quyền xem xét lại các quyết
định của ICSID. Tuy nhiên, nếu quyết định của ICSID đi ngược lại với những luật lệ cơ bản của
quốc gia thì quốc gia đó đựoc miễn thi hành. Trên thực tế, điều này có nghĩa là hình phạt không
được đi ngược lại những lợi ích công cộng của quốc gia.
Tác dụng ngăn ngừa
Hệ thống xét xử của ICSID dường như là hiệu quả, ngay cả khi không đặt trong một vụ kiện nào.
Chỉ riêng việc hiện diện của một cơ quan pháp lý hiệu quả đã có thể ảnh hưởng đến thái độ của
các bên để không dẫn đến những tranh cãi có thể có. Điều này như một tác động ngầm lên nhà
đầu tư và quốc gia chủ quản. Cả hai bên đều cố