Sản xuất là một trong những chức năng quan trọng nhất của doanh nghiệp,
là chức năng bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của mọi hoạt
động kinh tế. Do đó kế hoạch sản xuất là một yêu cầu tất yếu của mọi doanh
nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường nói chung và công ty cổ phần
LILAMA 10 nói riêng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng những yếu tố có sẵn để sản
xuất một hay nhiểu sản phẩm đã định.
Công ty cổ phần LILAMA 10 là công ty thành viên trực thuộc Tổng công
ty lắp máy Việt Nam - một doanh nghiệp Nhà nước thành lập năm 1960 cho nhiệm
vụ khôi phục nền công nghiệp của đất nước. Trên chặng đường hình thành và phát
triển LILAMA 10 luôn khẳng định vị thế và vai trò của mình đã để lại dấu ấn trên
hàng trăm công trình, hạng mục công trình công nghiệp, dân dụng quan trọng của
quốc gia. Đạt được những thành công đó một phần lớn là do công ty rất coi trọng
công tác lập kế hoạch sản xuất, coi đó là kim chỉ nam giúp doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu đạt ra.
Trong những năm gần đây, công tác kế hoạch hóa doanh nghiệp đặc biệt là
công tác lập kế hoạch sản xuất ở nước ta nói chung và tại công ty cổ phần
LILAMA 10 nói riêng đã có những thay đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên sự đổi mới đó
vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện từ việc
lập kế hoạch sản xuất tổng thể đến kế hoạch chỉ đạo sản xuất, kế hoạch nhu cầu
vật liệu, kế hoạch nhu cầu công xuất và việc thực hiện kế hoạch.
Do vậy, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần LILAMA 10 tôi đã tìm
hiểu và đi sâu nghiên cứu về công tác lập kế hoạch sản xuất để thực hiện đề tài:
“ Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10 ”
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận về kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần
LILAMA 10
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty
cổ phần LILAMA 10
64 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5740 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện công tác lập kế
hoạch sản xuất tại công ty cổ
phần LILAMA 10
LỜI NÓI ĐẦU
Sản xuất là một trong những chức năng quan trọng nhất của doanh nghiệp,
là chức năng bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của mọi hoạt
động kinh tế. Do đó kế hoạch sản xuất là một yêu cầu tất yếu của mọi doanh
nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường nói chung và công ty cổ phần
LILAMA 10 nói riêng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng những yếu tố có sẵn để sản
xuất một hay nhiểu sản phẩm đã định.
Công ty cổ phần LILAMA 10 là công ty thành viên trực thuộc Tổng công
ty lắp máy Việt Nam - một doanh nghiệp Nhà nước thành lập năm 1960 cho nhiệm
vụ khôi phục nền công nghiệp của đất nước. Trên chặng đường hình thành và phát
triển LILAMA 10 luôn khẳng định vị thế và vai trò của mình đã để lại dấu ấn trên
hàng trăm công trình, hạng mục công trình công nghiệp, dân dụng quan trọng của
quốc gia. Đạt được những thành công đó một phần lớn là do công ty rất coi trọng
công tác lập kế hoạch sản xuất, coi đó là kim chỉ nam giúp doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu đạt ra.
Trong những năm gần đây, công tác kế hoạch hóa doanh nghiệp đặc biệt là
công tác lập kế hoạch sản xuất ở nước ta nói chung và tại công ty cổ phần
LILAMA 10 nói riêng đã có những thay đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên sự đổi mới đó
vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện từ việc
lập kế hoạch sản xuất tổng thể đến kế hoạch chỉ đạo sản xuất, kế hoạch nhu cầu
vật liệu, kế hoạch nhu cầu công xuất và việc thực hiện kế hoạch.
Do vậy, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần LILAMA 10 tôi đã tìm
hiểu và đi sâu nghiên cứu về công tác lập kế hoạch sản xuất để thực hiện đề tài:
“ Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10 ”
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận về kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần
LILAMA 10
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty
cổ phần LILAMA 10
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH SẢN XUẤT TRONG DOANH
NGHIỆP
1.1. Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm chung về kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về kế hoạch
Hiểu theo nghĩa chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả
cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai. Cách hiểu
tổng quát này đúng cho các loại kế hoạch, có thể là kế hoạch cho một hoạt động,
một công việc hay một dự án sắp sửa làm gọi là kế hoạch hoạt động. Cũng có thể
đó là kế hoạch cho sự phát triển trong tương lai của một cá nhân, gia đình hay
của một tổ chức kinh tế, xã hội gọi là kế hoạch phát triển một đơn vị, một địa
phương hay cả quốc gia. Nhưng dù là kế hoạch hoạt động hay kế hoạch phát triển
thì bản chất của công tác này chính là sự hướng tới tương lai.
Cụ thể hơn, kế hoạch là công việc xác định xem một quá trình phải làm
gì? Làm như thế nào? Khi nào làm? Ai sẽ làm? Và sâu hơn nữa là làm như thế để
làm gì?. Vì vậy để có kế hoạch cần phải tiến hành quá trình soạn lập. Tùy theo
quy mô, mức độ và tính chất của hoạt động để tổ chức quá trình soạn lập với các
mức độ khác nhau. Từ việc hình thành kế hoạch trong đầu óc, suy nghĩ, cũng có
thể là một cuộc trao đổi tập thể đến việc thể chế hóa quá trình soạn lập với các
bước khác nhau. Nhưng một kế hoạch ở bất kỳ quy mô, hình thức nào cũng hàm
chứa hai nội dung cơ bản là mục tiêu và cách thức, giải pháp thực hiện. Đối
tượng lập kế hoạch có thể là hoạt động của một cá nhân, gia đình, tập thể hay
doanh nghiệp, địa phương hoặc phạm vi lớn nhất là toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế thường hay có sự nhầm lẫn giữa kế hoạch và kế hoạch hóa,
thậm chí còn đồng nhất hai khái niệm này và cho rằng kế hoạch hóa là quá trình
soạn lập kế hoạch, kết quả của quá trình kế hoạch hóa là tạo ra các văn bản dự
thảo về những dự định và giải pháp thực hiện trong tương lai. Nhưng thực chất,
kế hoạch và kế hoạch hóa là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kế hoạch hàm
chứa những dự định về kết quả và giải pháp thực hiện trong tương lai, nhưng việc
xây dựng kế hoạch không được coi là mục đích của kế hoạch hóa, nó chỉ được
coi là bước đầu tiên của quy trình kế hoạch hóa. Mục đích của kế hoạch hóa là
làm thế nào để thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch, biến những
giải pháp, chương trình hành động đặt ra trong kế hoạch thành thực tế. Điều đó
có nghĩa là kế hoạch hóa còn nhấn mạnh đến các quá trình khác nữa, đó là quá
trình tổ chức, triển khai các hoạt động trên thực tế theo kế hoạch.
Trong cuốn “Giới thiệu về kế hoạch phát triển kinh tế trong thế giới thứ
ba” của Diana Conyers và Peter Hills thì cho rằng: kế hoạch hóa là một quá trình
liên tục bao gồm việc đưa ra các mục tiêu cần đạt tới trong tương lai; lựa chọn và
quyết định các phương pháp khác nhau trong tổ chức, sử dụng hiệu quả nguồn
lực sẵn có nhằm hướng tới việc thực hiện mục tiêu đặt ra cho tương lai.
Theo quan điểm của OECD thì: “kế hoạch hóa được hiểu là các hoạt động
nhằm tạo ra và thực thi kế hoạch, bao gồm thiết kế ra, vạch ra từ trước một kế
hoạch để xây dựng và thực thi” (OECD, 1971)
Theo PGS.TS Ngô Doãn Vịnh viện trưởng viện chiến lược phát triển (bộ
KH&ĐT) cho rằng: “ Nói một cách đơn giản kế hoạch hóa chính là làm cho công
việc diễn ra một cách có kế hoạch. Cụ thể hơn, nói kế hoạch hóa tức là nói đến
lập kế hoạch và biến kế hoạch thành thực tế cuộc sống đối với một công việc cụ
thể hay đối với một hệ thống nhất định”.
Các nhận định trên đề phản ánh: (1) kế hoạch hóa chính là một phương
thức quản lí nền kinh tế bằng mục tiêu; (2) Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân bao
gồm ba mặt công tác: công tác xây dựng kế hoạch; công tác lãnh đạo và tổ chức
thực hiện kế hoạch, công tác theo dõi kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam “kế hoạch hóa là phương thức quản lý
vĩ mô nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con
người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt
là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lí các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh
vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu thống nhất, dự kiến
trước phương hướng, cơ cấu, tốc độ phát triển và có những biện pháp tương ứng
đảm bảo thực hiện, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao”. (trang 469 từ điển
Bách khoa Việt Nam 2 – NXB từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002)
Với khái niệm này kế hoạch hóa nền kinh tế được hiểu theo góc độ thực
hiện, bao gồm các hoạt động: (1) soạn lập kế hoạch (xác định mục tiêu, chỉ tiêu
phát triển và hệ thống giải pháp chính sách áp dụng trong thời kì kế hoạch); (2) tổ
chức thực hiện kế hoạch (quá trình tổ chức phối hợp hoạt động của các bên, sử
dụng các chính sách, giải pháp nhằm khai thác, huy động và sử dụng nguồn lực
trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch); (3) theo dõi, kiểm tra, đánh giá và
điều chỉnh kế hoạch với nhứng yếu tố mới phát sinh trong môi trường kinh tế
(quá trình theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ thống kinh tế quốc dân, đánh
giá tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch và tác động của kế hoạch đến phát triển
kinh tế xã hội, bổ sung và điều chỉnh kế hoạch trong kỳ hoặc kỳ kế hoạch sau).
Như vậy, kế hoạch và kế hoạch hóa là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Các đối tượng liên quan đến công tác lập kế hoạch cần phải hiểu rõ vấn đề này để
tránh cho công tác kế hoạch kết thúc bằng sự ra đời của một bản kế hoạch trên
giấy, còn các mục tiêu kế hoạch thì không thực hiện được.
1.1.1.2. Khái niệm về kế hoạch cấp doanh nghiệp
Kế hoạch là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các
quy luật xã hội và tự nhiên đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức, quản lý các
đơn vị kinh tế – kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hay toàn bộ nền sản xuất xã hội
theo mục tiêu thống nhất.
Kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một phương
thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can
thiệp một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Như vậy, Kế hoạch trong doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục
tiêu phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đề ra.
1.1.1.3. Nguyên tắc, chức năng của kế hoạch doanh nghiệp.
a. Chức năng của kế hoạch doanh nghiệp
Kế hoạch doanh nghiệp là một công cụ ra quyết định nên nó luôn giữ một vị
trí quan trọng trong hệ thống quản lý ở tầm vĩ mô, vị trí của nó được thể hiện trong
các chức năng tiềm ẩn sau:
Thứ nhất, là chức năng ra quyết định. Kế hoạch cho phép xây dựng quy trình
ra quyết định và phối hợp các quyết định. Kế hoạch tạo nên một khuôn khổ hợp lý
cho việc ra quyết định, chức năng này là một trong những điểm mạnh của hệ thống
kế hoạch hoá trong doanh nghiệp.
Thứ hai là chức năng giao tiếp: Kế hoạch tạo điều kiện cho việc giao tiếp
giữa các thành viên của ban lãnh đạo, cho phép lãnh đạo các bộ phận khác nhau
phối hợp xử lý các vấn đề dài hạn, bộ phận kế hoạch cũng thu lượm được từ các bộ
phận nghiệp vụ các triển vọng trung hạn và chuyển tới các bộ phận khác.
Thứ ba là chức năng quyền lực: Việc công bố một quy trình kế hoạch hợp lý
và kế hoạch là một trong những phương tiện để khẳng định tính đúng đắn của các
định hướng chiến lược đã chọn, quy trình kế hoạch có thể được xem là một trong
những phương tiện mà người lãnh đạo nắm giữ để định hướng tương lai của doanh
nghiệp và thực hiện sự “thống trị” của họ.
b. Các nguyên tắc kế hoạch doanh nghiệp.
Nguyên tắc kế hoạch xác định tính chất và nội dung hoạt động kế hoạch của
đơn vị kinh doanh tuân thủ đúng các nguyên tắc của kế hoạch tạo ra điều kiện tiền
đề cho việc nâng cao hiệu quả và giảm thiểu tiêu cực có thể có trong hoạt động của
doanh nghiệp.
Các nguyên tắc cơ bản của kế hoạch doanh nghiệp:
Thứ nhất là nguyên tắc thống nhất: Nguyên tắc thống nhất yêu cầu bảo đảm
sự phân chia và phối hợp chặt chẽ trong quá trình xây dựng, triển khai tổ chức thực
hiện kế hoạch giữa các cấp, các phòng ban trong một doanh nghiệp thống nhất.
Thứ hai là nguyên tắc tham gia: Đây là nguyên tắc có quan hệ mật thiết với
nguyên tắc thống nhất. Nguyên tắc này có nghĩa là mỗi thành viên của doanh
nghiệp đều tham gia những hoạt động cụ thể trong công tác kế hoạch hoá, không
phụ thuộc vào nhiệm vụ và chức năng của họ. Công tác kế hoạch có sự tham gia
của mọi thành phần trong doanh nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Mỗi thành viên của doanh nghiệp có hiểu biết sâu sắc hơn về doanh nghiệp
của mình vì vậy nếu tham gia trong công tác kế hoạch họ sẽ nhận được thông tin
một cách chủ động hơn và việc trao đổi thông tin sẽ dễ dàng hơn.
- Sự tham gia sẽ dẫn đến việc kế hoạch của doanh nghiệp trở thành kế hoạch
của chính người lao động. Người lao động tham gia vào việc thực hiện các mục
tiêu kế hoạch chính là đem lại sự thoả mãn nhu cầu này cho chính bản thân họ.
- Cho phép người trực tiếp tham gia vào công việc kế hoạch phát huy tính chủ
động của mình với hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba là kế hoạch phải mang tính linh hoạt. Do nhiều bất định trong tương
lai và sai lầm có thể có ngay cả trong các dự báo thông thái nhất. Nội dung của
nguyên tắc này được thể hiện
- Cần có nhiều phương án kế hoạch.
- Ngoài kế hoạch chính cần xây dựng những kế hoạch dự phòng, kế hoạch
phụ để có thể tạo dựng trong kế hoạch một khả năng thay đổi phương hướng khi
những sự kiện không lường trước được có thể xảy ra.
- Cần phải xem xét lại các kế hoạch một cách thường xuyên để giúp kế hoạch
không xa dời hiện tại.
1.1.1.4. Quy trình kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Quy trình kế hoạch có thể hiểu là quy trình bao gồm các bước tuần tự, cho
phép vạch ra các mục tiêu tại những thời điểm khác nhau trong tương lai, dự tính
các phương tiện cần thiết và tổ chức triển khai sử dụng các phương tiện nhằm đạt
các mục tiêu.
Một trong những quy trình được áp dụng rộng rãi ở các nước kinh tế thị
trường phát triển có tên là quy trình quy trình P.D.C.A
Điều chỉnh(ACT) Lập kế hoạch(Plan)
Kiểm tra(check) Thực hiện(Do)
Theo sơ đồ này, quy trình kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm các bước:
Bước 1: Soạn lập kế hoạch
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế
hoạch hóa. Với nội dung chủ yếu là xác định các nhiệm vụ, các mục tiêu chiến
lược, các chương trình cũng như các chính sách, biện pháp áp dụng trong thời kỳ
kế hoạch của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, soạn lập kế hoạch thường phải là quá trình xây dựng nhiều
phương án khác nhau, trên cơ sở đó đưa ra các lựa chọn chiến lược và các chương
trình hành động, nhằm mục đích đảm bảo thực hiện các lựa chọn này
Bước 2: Triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch
Thực hiện các điều
chỉnh cần thiết
Xác định mục tiêu và
quy trình cần thiết để
thực hiện mục tiêu
Đánh giá và phân tích
quá trình thực hiện
Tổ chức thực hiện qui
trình đã dự định
Nôi dung của quá trình này bao gồm việc thiết lập và tổ chức các yếu tố
nguồn lực cần thiết, sử dụng các chính sách, các biện pháp cũng như đòn bẩy quan
trọng tác động trực tiếp đến các cấp thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhằm đảm bảo các yêu cầu tiến độ đặt ra trong các kế hoạch tác
nghiệp cụ thể kể cả thời gian, quy mô, chất lượng công việc. Kết quả hoạt động
của quá trình này được thể hiện bằng những chỉ tiêu thực tế của hoạt động doanh
nghiệp.
Bước 3: Tổ chức công tác theo dõi, giám sát, thực hiện kế hoạch
Nhiệm vụ của quá trình này là thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đặt ra và
theo dõi phát hiện những phát sinh không phù hợp với mục tiêu. Khi phát hiện
những phát sinh không phù hợp, điều quan trọng là phải tìm được các nguyên nhân
dẫn đến vấn đề đó. Đó có thể là những nguyên nhân khách quan từ môi trường bên
ngoài, cũng có thể là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía các nhà lãnh
đạo.
Bước 4: Điều chỉnh thực hiện kế hoạch
Từ những phân tích về hiện tượng không phù hợp với mục tiêu, các nhà kế
hoạch đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết và kịp thời. Có thể là thay đổi nội
dung của hệ thống tổ chức, thực hiện sự thay đổi một số mục tiêu bộ phận trong hệ
thống mục tiêu đặt ra ban đầu , và khi mà những điều chỉnh này vẫn không đạt
hiệu quả thì quyết định cuối cùng sẽ là chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
Quy trình kế hoạch hóa nêu trên không phải là trình tự tác nghiệp tuần tự
đơn giản mà phải được thực hiện đan xen, hỗ trợ nhau trong tất cả các khâu. Quá
trình này đòi hỏi tính linh hoạt và nghệ thuật quản lý rất lớn.
1.1.2. Vai trò kế hoạch doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính
vô sản, kế hoạch được thể hiện là những quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra
từ trung ương. Các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu pháp
lệnh mang tính toàn diện, chi tiết mà cơ quan quản lý cấp trên giao xuống trên cơ
sở cân đối chung toàn ngành và tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
pháp lệnh là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế kế hoạch hoá tập trung áp dụng ở Việt
Nam trong thời gian đầu, nó đem lại những kết quả đáng kế nhất là trong thời kỳ
Việt Nam thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với cơ chế này nhiều doanh
nghiệp sản xuất và dịch vụ nước ta đã ra đời và cung cấp một khối lượng của cải
vật chất đáng kể đảm đương được những nhiệm vụ nặng nền trong công cuộc phục
vụ kháng chiến và quốc kế dân sinh.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hoá theo mô hình
tập trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, các doanh nghiệp phải đối mặt
với các quy luật thị trường, vì vậy những dấu hiệu thị trường là cơ sở để các doanh
nghiệp thực hiện hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Và kế hoạch hoá vẫn là
cơ chế quản lý cần thiết, hữu hiệu của các doanh nghiệp vì kế hoạch mang một vị
trí rất quan trọng trong doanh nghiệp:
- Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục
tiêu vì kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Lập kế hoạch là
khâu đầu tiên quan trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa là công việc duy nhất
có liên quan tới việc xác lập các mục tiêu cần thiết.Và trên cơ sở các mục tiêu đã
chọn, doanh nghiệp quyết định các hành động và bước đi tiếp theo để đạt được các
mục tiêu cho nên chính các hoạt động của công tác kế hoạch là tập trung sự chú ý
vào những mục tiêu này.
- Công tác kế hoạch với việc ứng phó với những bất định và đổi thay của thị
trường vì lập kế hoạch là dự kiến những vấn đề của tương lai. Thị trường bản thân
nó rất linh hoạt và thường xuyên biến động, kế hoạch và quản lý giúp doanh
nghiệp dự kiến được những vấn đề tương lai. Từ đó tìm ra cách tốt nhất để đạt mục
tiêu đặt ra, phân công, phối hợp hoạt động của các bộ phận trong hệ thống trong
quá trình thực hiện các mục tiêu và ứng phó với những bất ổn trong diễn biến sản
xuất kinh doanh.
- Công tác kế hoạch với việc tạo khả năng tác nghiệp kinh tế trong doanh
nghiệp. Công tác kế hoạch doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic các
nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến tới mục tiêu
sản xuất sản phẩm và dịch vụ cuối cùng. Trên nền tảng đó, các nhà quản lý thực
hành phân công, điều độ, tổ chức các hoạt động cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự,
bảo đảm cho sản xuất sẽ không bị rối loạn và ít bị tốn kém.
1.1.3. Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Theo góc độ thời gian:
Theo góc độ thời gian kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận
cấu thành:
- Kế hoạch dài hạn: Bao trùm lên khoảng thời gian là 10 năm. Quy trình soạn
lập kế hoạch dài hạn được đặc trưng bởi: môi trường liên quan được hạn
chế bởi thị trường mà doanh nghiệp đã có mặt, dự báo trên cơ sở ngoại suy
từ quá khứ, chủ yếu nhấn mạnh các ràng buộc về tài chính, sử dụng rộng rãi
các phương pháp kinh tế lượng để dự báo.
- Kế hoạch trung hạn: Cụ thể hóa những định hướng của kế hoạch dài hạn ra
thành những khoảng thời gian ngắn hạn hơn thường là 3-5 năm.
- Kế hoạch ngắn hạn: thường là kế hoạch hàng năm, kế hoạch quý, tháng. Kế
hoạch ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực cần
thiết để đạt mục tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
Ba loại kế hoạch ngắn, trung và dài hạn cần phải được liên kết chặt chẽ với
nhau và không được phủ nhận lẫn nhau. Và để thực hiện được mối quan hệ này thì
các nhà lãnh đạo chủ chốt trong doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa
đổi các quyết định trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay
không, đồng thời các nhà quản lý cấp dưới nên được thông báo một cách thường
xuyên về kế hoạch dài hạn của doang nghiệp sao cho các quyết định dài hạn của
họ phù hợp với các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Theo góc độ lĩnh vực hoạt động:
Theo lĩnh vực hoạt động thì kế hoạch doanh nghiệp được thể hiện cụ thể ở
những bộ phận kế hoạch riêng biệt như sau:
- Kế hoạch sản xuất: Là kế hoạch được xây dựng dựa trên năng lực sản xuất
và các phân tích đánh giá dự báo nhu cầu của sản phẩm trên thị trường.
Trên thực tế luôn có sự sai lệch giữa dự báo và thị trường do vậy kế hoạch
sản xuất được lập ra nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn
có để sản xuất một hoặc nhiều sản phẩm đã định.
- Kế hoạch marketing: Là một tài liệu bằng văn bản xuất phát từ sự phân tích
môi trường và thị trường, trong đó người ta đề ra các chiến lược lớn cùng
với những mục tiêu trung gian và ngắn hạn cho cả công ty, hoặc cho một
nhóm