1. Lý do chọn đề tài.
Sau một thời gian học và được thầy hướng dẫn nghiên cứu môn học Tác phẩm kinh điển Mác – Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học. Em thấy rằng rất cần phải nghiên cứu vấn đề này chi li hơn nữa vì nó sẽ giúp ích rất lớn cho chúng ta “đặc biệt là em ” là người được học chuyên nghành chủ nghĩa xã hội khoa học, hơn nữa nước ta đang là nước đi theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi chúng ta nghiên cứu vấn đề này thì sẽ thấy rất nhiều điều hay, thú vị và còn ẩn chứa mà chúng ta chưa bao giờ có thể nghĩ tới nằm trong đó như là: khi chúng ta nghiên cứu tác phẩm “ gia đình thần thánh hay là sự phê phán có tính phê phán” ( chống Bau ơ và đồng bọn), thì thấy được là “ thời báo văn học có tính chất phê phán”. Tiếp đó là tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Hê thống lại các lý luận của các nhà kinh tế cổ điển theo một trình tự từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, nên tiểu luận chỉ bàn về các vấn đề chung nhất trong học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế cổ điển. Nghiên cứu những phạm trù chung nhất của nền kinh tế hàng hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp duy vật biện chứng va duy vật lịch sử.
-Phương pháp phân tích, so sánh.
27 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3401 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Học thuyết tư sản cổ điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sau một thời gian học và được thầy hướng dẫn nghiên cứu môn học Tác phẩm kinh điển Mác – Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học. Em thấy rằng rất cần phải nghiên cứu vấn đề này chi li hơn nữa vì nó sẽ giúp ích rất lớn cho chúng ta “đặc biệt là em ” là người được học chuyên nghành chủ nghĩa xã hội khoa học, hơn nữa nước ta đang là nước đi theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi chúng ta nghiên cứu vấn đề này thì sẽ thấy rất nhiều điều hay, thú vị và còn ẩn chứa mà chúng ta chưa bao giờ có thể nghĩ tới nằm trong đó như là: khi chúng ta nghiên cứu tác phẩm “ gia đình thần thánh hay là sự phê phán có tính phê phán” ( chống Bau ơ và đồng bọn), thì thấy được là “ thời báo văn học có tính chất phê phán”. Tiếp đó là tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Hê thống lại các lý luận của các nhà kinh tế cổ điển theo một trình tự từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, nên tiểu luận chỉ bàn về các vấn đề chung nhất trong học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế cổ điển. Nghiên cứu những phạm trù chung nhất của nền kinh tế hàng hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp duy vật biện chứng va duy vật lịch sử.
-Phương pháp phân tích, so sánh.
m
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Sơ lược về tiểu sử của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển.
William Petty (1623-1687).
W.Petty sinh năm 1623, trong một gia đình thợ may nghèo ở một thị trấn yên bình của hampshire, bên dòng sông Test, miền nam nước Anh. Việc học của ông về cơ bản chỉ có học thuộc lòng, đó là một kiểu giáo dục điển hình đối với trẻ em thuộc tầng lớp xã hội thấp trong thời kỳ đó. Mặc dù vậy, W.Petty nổi lên trong cách giáo dục đó vì ông có tính rất tò mò và đọc rộng về văn chương và khoa học.
Vào độ tuổi 13 hay 14 gì đóm ông thôi học và tìm việc trên một chiếc tàu thường xuyên qua lại eo biển Măng-sơ, Trong năm đàu làm việc, ông bị gẫy chân, vì không còn có ích đối với người chủ ông ở lại Pháp. W.Petty quyết định ở lại Pháp và nhập jọc trường Jesuit College ở Caen. Ông rời Cean năm 1640, dành 3 năm trong hải quân, và sa đó đến Hà Lan để học giải phẫu và y học.
Năm 1646 W.Petty trở lại nướic Anh để học nghề y tại trường Oxford. Sau khi nhận bằng tiến sỹ y học ông được bổ nhiệm làm giáo sư giải phẫu tại Oxford. W.Petty trở nên nổi tiềng và được kính trọng vì người ta tưởng ông là kiếp phục sinh từ cái chết của một người đàn bà bị xử treo cổ. Nhưng trong những tuần giảng đầu tiên, ông đã nhận thấy rằng cuộc sống nghiên cứu không thích hợp đối với ông và ông đã rời Oxford để trở thành một bác sỹ trưởng trong quân đội Ailen,. cùng thời gian đóm W.Petty trở thành người giám sát chính ở Ailen, và ông đã dùng kiến thức có được trong công việc này để tích luỹ được nhiều của cảc và đất đai. Vào những năm 1660, ông giúp thành lập một Hiệp hội hoàng gia London về nâng coa hiểu biết tự nhiên. Cương lĩnh của nó tuân thieo phương pháp kho học của Francis Bacon-sử dụng quan sáo và thí nghiệm đểt nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội.
1.2. Francois Quesnay (1694-1774).
F.Quesnay nổi tiếng với tư cách là người sáng tạo ra mô hình kinh tế đầu tiên, tức là Biểu kinh tế, và với tư cách là người đứng đầu phái trọng nông, trường phái tư tưởng kinh tế đầu tiên. Tuy vậy, F.Quesnay được ngưỡng mộ vì nhiều điều khác như việc đề xuất của ông về thị trường tự do, phân tích sự tạo thành văn hoá phân phối thặng dư kinh tế, cũng như cách nhìn nhận của ông về nền kinh tế như là một tập hợp gắn kết chặt chẽ của các bộ phận độc lập.
F.Quesnay sinh năm 1694 ở gần Versailles. Cha ông là một nông dân và là chủ một cửa hàng nhỏ, vì thế ông không được giáo dục một cách chính thống, nhưng F.Quesnay là một người rất ham mê sách .
Vào tuổi 17, ông quyết định trở thành nhà giải phẫu. Mặc dù không thích khoá học y khoa nhưng ông vẫn tiếp tục nghiên cứu. Năm 1735, ông được mời làm bác sỹ riêng cho công tước Villenroy. Năm 1774, ông nhận bằng tiến sỹ y học và trở thành thành viên của Hội khoa học Pháp.
Lúc 55 tuổi, F.Quesnay trở nên quan tâm đên kinh tế học và toán học. Với hiểu biết rộng và có nhiều mối quan hệ với những người có địa vị cao, ông được viết một số mục trong Bách khoa thư của Diderot. Những mục đó đã làm ông trở nên nổi tiếng và được nhiều người ủng hộ.
Chịu ảnh hưởng của các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên, F.Quesnay cổ vũ nhiệt thành cho trật tự tự nhiên của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh, không có sự can thiệp của nhà nước. Ông có công lớn trong việc phân tích tư bản và “sản phẩm thuần tuý” của nền kinh tế.
1.3. Adam Smith (1723-1790).
A.Smith sinh năm 1723 tại Kirkcaldy, một thị trấn nhỏ gần Edinburgh, Scotland. Cha ông là một luật sư đã mất ngay trước khi ông sinh ra. Do vậy, A.Smith được mẹ và những người bảo trợ theo di chúc của cha ông nuôi nấng.
Mặc dù khi nhở là một đức trẻ ốm yếu bênhj tật, nhưng A.Smith có niềm đam mê rất lớn đối với với sách vở và là một độc giả nhiệt tình. Vảo tuổi 14, ông được gửi đến trường Đại học Glasgow, nơi ông nghiên cứu triết học đạo đức, toán học và kinh tế chính trị. Năm 1740, ông giành được học bổng đi Oxford và học tại trường Balliol trong sáu năm tiếp theo.
Năm 1751. A.Smith được mời làm giáo sư về Lôgic tại Đại học Glasgow. Một năm sau đó ông đảm trách vị trí Giáo sư Triết học đạo đức. Các bài giảng của ông về đạo đức được nhiều người chú ý tham dự và sau đó được tập hợp thành tác phẩm thành công đầu tiên của ông – tác phẩm Lý thuyết về những xúc cảm đạo đức.
Khi Charles Townshend đọc cuốn “Lý thuyết về những cảm xúc đạo đức”, ông nhận ra thật may mắn nếu mời đựoc A.Smith làm gia sư cho con trai riêng của ông, Smith đã nhận lời và từ giã chức giáo sư tại Glasgow để lên đường sang Pháp làm gia sư cho con trai của nha quý tộc. Công việc mới này cho phép A.Smith có nhiều thời gian rảnh rỗi để đọc và suy ngẫm, và nhờ chuyến đi Pháp , ông có cơ hội gặp gỡ những người đứng đầu của phái trọng nông, kể cả Francois Quyesnay.
Sau khi đi vòng quanh nước Pháp ba năm, A.Smith trở về Kirđcaly và sau đó dành 10 năm tiếp theo để hoàn thành cuốn sách của ông – tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, được xuất bản năm 1776, và tác phẩm này đã đem lại cho ông sự nổi tiếng và giàu có.
Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng của mình với lý thuyết “bàn tay vô hình”, từ năm 1778 A.Smith từ bỏ lĩnh vực nghiên cứu kinh tế để trở về cuộc sống của một viên chức thuế quan ơ Scotland cho đến cuối đời. Với đức tính khiêm nhường, giản dị và giàu lòng nhân ái, A.Smith đã được nhiều người đương thời kính phục, và yêu mến.
1.4. David Ricardo (1772-1823).
D.Ricardo sinh năm 1772 tại London trong một gia đình Do thái giàu có. Ông được đào tạo chu đáo theo hướng kế nghiệp cha trong thế giới tài chính và thương mại. Khi 14 tuổi ông vào làm trong công ty môi giới của cha, ông nhanh chóng làm quen với hoạt động kinh doanh. Ông được xem là một nhà đàm phán cực kỳ tài năng, và nhanh chóng thành thạo trong các hoạt động đày khó khăn và bí ẩn như kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
D.Ricardo bị cha từ bỏ vì ông cưới một cô gái thuộc giáo pháo Quaker và cải sang đạo Thiên chúa. Không một xu dính túi và phải đảm bảo cho cuộc ssong gia đình,D.Ricardo chạy vạy khắp nới để vây tiền và mở một công ty môi giới của chính ông. Dù những năm đầu đầy gian khó, nhưng sau đó không lâu ông nhanh chóng kiếm được một tài sản lớn và trở nên độc lập về tài chính vào tuổi 26. Điều này cho phép ông giành thời gian theo đuổi những sở thích của ông trong lĩnh vực khoa học và tri thức. Ông thành lập một phòng thí nghiệm, bắt đầu thu thập khoáng vật, văn hoá tham gia hội địa chất học Anh.
Trong một kỳ nghỉ với vợ vào năm 1799, D.Ricardo ngẫu nhiên đọc được cuốn “Của cải của các dân tộc” của A.Smith, D.Ricardo quyết định dành thời gian rảnh rỗi cho nghiên cứu kinh tế.
Năm 1819, D.Ricardo tậu được một ghế trong hạ viện Anh. Đây là một ghế đại biểu cho hạt Portarlington xứ Ailen-một địa điểm ông chưa bao giờ đặt chân đến. D.Ricardo đã nhanh chóng trở thành một chuyên gia có tiếng trong nghị viện về các vẫn đề tài chính và ông thường phát biểu sôi nổi về các vấn đề kinh tế cấp bách đương thời như tiền tệ văn hoá ngân hàng, thuế quan, thuế khoá và suy thoái trong nông nghiệp.
Trong cuộc đời khoa học của mình, D.Ricardo chịu ảnh hưởng nhiều nhất của A.Smith và Malthus-nhà kinh tế học tư sản tầm thường nổi tiếng. Người ta cũng không thể không nói đên J.Mill, một nhà văn và nhà chính luận có công lao to lớn trong việc dẫn dắt D.Ricardo đến với khoa học, giúp ông xuất bản những công trình đầu tiên, một người bạn trung thành đến tận cuối đời nhưng luôn luôn tự nhận là học trò và người kế tục của ông.
Công trình nổi tiếng nhất của D.Ricardo là cuốn sách “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và vấn đề thuế khoá” được xuất bản vào tháng 4 –1817 khi ông 35 tuổi. Trước đó, năm 1815 ông đã viết cuốn sách nghiên cứu về ảnh hưởng của giá cả thấp đối với lợi nhuận của tư bản.
D.Ricardo có một tài sản vô giá là kiến thức kinh tế thực tến đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Nhờ vậy trong hệ thống lý luận của mình, ông đã thể hiện được một cơ sở vững chắc cho phương pháp nghiên cứu kinh tế học. Đối với những người đương thời hệ thống kinh tế của D.Ricardo là một hệ thống kinh tế kiểu mới.
II. Hệ thống một số lý luận.
2.1. Lý luận về giá trị.
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị và vấn đề thuế khoá”, đại biểu nổi tiếng nhất của tư tưởng kinh tế chính trị tư sản cổ điển D.Ricardo đã đưa ra luận điểm chung nói rằng “giá trị của hàng hoá, hay số lượng của một hàng hoá nào đó trao đổi, là số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động đó quyết định”. Lý luận về giá trị đã được các nhà kinh tế học trước đó nói đến và mầm mống của học thuyết giá trị lao động bắt đầu được nêu ra trong lý thuyết của W.Petty.
Công lao to lớn của W.Petty là ở chỗ, ông là người đầu tiên nêu ra nguyên lý giá trị lao động, nghĩa là lao động là cơ sở của giá trị. Lý luận của ông có nhiều mâu thuẫn. W.Petty đã nêu ra ba luận điểm về giá trị . Luận điểm thứ nhất ông cho rằng giá trị hàng hoá bằng số lượng so sánh của lao động chứa đựng trong những hàng hoá đó. Trong luận điểm này, W.Petty đã phân tích sự phụ thuộc giữa giá trị và năng suất lao động và rút ra rằng giá trị tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. W.Petty nói rõ là sự khác nhau của các loại lao động ở đây không quan hệ gì cả, chỉ tuỳ thuộc vào thời gian lao động. Như vậy W.Petty có ý định đặt ra vấn đề lao động giản đơn và lao động phức tạp, nhưng ông chỉ dừng lại ở đó không phân tích luận điểm đó hơn nữa.
Mặt khác ông lẫn lộn giữa giá trị và giá trị sử dụng khi đưa ra luận điểm thứ hai cho rằng “việc đánh giá tất cả mọi vật phải được quy thành hai mẫu số tự nhiên là đất đai và lao động, nghĩa là chúng ta phải nói: giá trị của một chiếc thuyền hay một cái áo là ngang với giá trị của một số đất đai là bao nhiêu đó cộng với một lượng lao động là bao nhiêu đó. Bởi vì cả hai vật đó, thuyền và áo đều do đất đai và lao động của con người tạo ra”. Ông cho rằng “lao động là bố là nhân tố tích cực của của cải, còn đất đai là mẹ của nó…”, nhưng khi phát sinh vấn đề thước đo thống nhất của giá trị thì W.Petty về thực chất muốn quy giá trị của đất thành lao động.
W.Petty đưa ra luận điểm thứ ba cho rằng “suất ăn trung bình hàng ngày của một người lớn là thước đo chung của giá trị chứ không phải lao động hàng ngày của anh ta. Cái thước đo ấy đều đặn và không biến đổi như là giá trị của bạc ròng. Vì vậy mà tôi đã quy định giá trị của một cái nhà tranh ở Airơlen bằng những số lượng suất ăn hằng ngày mà người xây dựng đã chi phí để dựng lên nó”. Ở đây ông hoàn toàn không biết đến giá trị. Các luận điểm giá trị của W.Petty còn chưa dựa trên cơ sở vững chắc là lao động, luận điểm khoa học của ông còn xen kẽ với những luận điểm không khoa học. Ngay cả quan niệm giá trị khoa học của W.Petty còn in dấu vủa chủ nghĩa trọng thương vì theo ông các lao động khác có giá trị là vì nó được so sánh với lao động sản xuất ra bạc-lao động sản xuất ra tiền. Ông quy định lao động cụ thể sản xuất ra bạc thành lao động trừu tượng – khi giải quyết những vấn đề địa tô, lợi tức…ông lại đứng trên quan niệm khoa học về giá trị.
Các nhà tư tưởng lớn thời cổ đại đã cảm thấy những thuộc tính khác nhau của hàng hoá nhưng mãi đến A.Smith quan điểm đó mới được xây dựng một cách vững chắc. Ông đã phân biệt rõ ràng và dứt khoát giá trị trao đổi và giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Một số đồ vật có thể có giá trị sự dụng rất lớn nhưng giá trị trao đổi của chúng rất ít. A.Smith đặt cho mình nhiệm vụ phải xác định cái “thước đo thực tế” của giá trị trao đổi và “giá cả thực tế” của tất cả các hàng hoá. Theo A.Smith lúc đầu sự giàu có của con người là tuỳ thuộc vào chỗ giá trị sử dụng nhiều hay ít, khi có phân công lao động thì lại phụ thuộc vào số lượng lao động mà họ có thể chi phối hay có thể mua được. Lao động chính là thước đo thực tế của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. Lao động là giá cả đầu tiên , là tổng số tiền mua đầu tiên đã trả cho tất cả các vật phẩm. Không phải vàng và bạc mà chính lao động là cái đầu tiên được dùng để đổi lấy tất cả của cải trên thế giới. Đó là khái niệm đúng đắn về giá trị. Thực chất A.Smith hiểu giá trị bằng số lượng lao động đã hao phí chứa đựng trong hàng hoá. A.Smith cho rằng rất khó xác định tỉ lệ giữa những lượng lao động khác nhau, một giờ lao động nặng nhọc có thể có giá trị bằng hai giờ lao động nhẹ, một số nghề đòi hỏi phải đào tạo mười năm, việc tính toán sự khó khăn và dễ dàng của lao động rất phức tạp và ông cho rằng sự cạnh tranh trên thị trường giải quyết vấn đề đó.
Khí xác định thước đo bên ngoài của giá trị, ông đã đi đến một khái niệm giá trị khác: giá trị bằng số lượng lao động sống mua được trong việc trao đổi hàng hoá. Trên thực tế ông đã lấy tiền công làm thước đo các giá trị hàng hoá. Ông cho rằng đối với người công nhân thì lúc nào và ở đâu những lượng lao động như nhau bao giờ cũng có giá trị giống nhau. Trong cách hiểu thứ hai về giá trị rõ ràng A.Smith đã nhầm lẫn giữa lao động sống và lao động quá khứ, giữa số lượng lao động và giá trị lao động, A.Smith đã đem lại những khái niệm giá trị đó áp dụng vào để giải thích việc trao đổi giữa tư bản và lao động và thấy không còn đúng nưa vì vậy ông tuyên bố chỉ trong xã hội nguyên thuỷ và ít phát triển, tồn tại trước khi có sự tích luỹ tư bản và sở hữu tư nhân về ruộng đất thì hàng hoá mới được trao đổi theo chi phí đã làm ra chúng. Trong điều kiện lao động đối lập với công nhân làm thuê thì thời gian lao động không còn là thước đo nội tại điều tiết giá trị trao đổi của hàng hoá nữa. Như vậy có nghĩa là A.Smith phủ nhận quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản.
Đến D.Ricardo, học thuyết giá trị của D.Ricardo mang tính khoa học và khá hoàn chỉnh. D.Ricardo đã soát lại hoạc thuyết giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ mà ông cho là sai lầm và không cần thiết, giữ lại và phát triển những nhân tố hợp lý của lý luận đó. D.Ricardo cũng phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của hàng hoá, coi sự công dụng không phải là thước đo của giá trị trao đổi, nhân tố tự nhiên chỉ mang lại cho hàng hoá một giá trị sử dụng chứ không mang lại cho hàng hoá một giá trị trao đổi. Theo ý kiến của D.Ricardo, những hàng hoá có ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguồn: tính chất hiếm có và số lượng lao động cần thết để sản xuất ra chúng. Ông thấy rằng giá trị của một loạt hàng hoá chỉ do sự hiếm có quyết định, vì không có một lao động nào có thể làm tăng số lượng của những hàng hoá đó, và vì vậy “giá trị của chúng không thể bị hạ xuống do lượng cung tăng lên”. Vì những hàng hoá loại đó cấu thành một tỉ trọng rất nhỏ bé, nên ông cho rằng khi nghiên cứu giá trị trao đổi và những quy luật điều tiết giá cả tương đối của các hàng hoá người ta có thể chỉ lấy những hàng hoá mà số lượng có thể được tăng lên bằng lao động của con người.
Khi nghiên cứu đến cơ cấu giá trị, A.Smith đã đưa ra cái giáo điều của mình là: tiền công, lợi nhuận, địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như mọi giá trị trao đổi. D.Ricardo vạch rõ Smith đã nhầm lẫn giữa quá trình hình thành giá trị và quá trình phân phối gía trị. Việc phân phối giá trị không ảnh hưởng gì đến việc hình thành giá trị. Việc tăng tiền công không làm cho giá trị hàng hoá tăng lên mà làm cho lợi nhuận giảm xuống, tương tư như vậy đối với lợi nhuận và điạ tô. Ông cũng không đồng ý với A.Smith khi Smith không tính đến lao động quá khứ trong giá trị hàng hoá. Ông cho rằng không những chi phí lao động trực tiếp để sản xuất ra giá trị hàng hoá mà còn tính đến cả những lao động đã hao phí vào các công cụ lao động.
D.Ricardo phân biệt giữa giá cả tự nhiên và giá cả thị trường, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả tự nhiên là giá cả cần thiết để thường xuyên thoả mãn số cầu, cộng với một lợi nhuận thông thường. Đây chính là giá cả sản xuất mà sau này C.Mác nói tới.
D.Ricardo phân tích mối quan hệ giữa giá trị và năng suất lao động và kết luận khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị giảm xuống. Khác với A.Smith, ông cho rằng quy luật giá trị không chỉ hoạt động trong xã hội nguyên thuỷ mà còn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản nữa, quy luật cgiá trị có chức năng phân phối lại lao động, quy định tỉ lệ trao đổi và điều tiết sự hình thành giá cả. Ông phân biệt một cách rõ ràng giá trị và của cải, giá trị không phụ thuộc vào tình hình có nhiều của cải mà phụ thuộc vào tình hình sản xuất khó hay dễ, thước đo của của cải không phải là thước đo giá trị; giá trị giảm xuống trong khi của cải tăng lên.
So với A.Smith, học thuyết giá trị của D.Ricardo triệt để hơn, hoàn thiện hơn và trở thành nhất quán. Nhưng cũng như Smith, D.Ricardo không nghiên cứu sâu về bản chất giá trị vịvậy ông khong nhìn thấy gính lịch sử của phạm trù giá trị mà cho nó là phạm trù vĩnh viễn, đồng nhất với các hình thái của nó. Ông xuất phát từ tiền đề thực tế có sẵn của chủ nghĩa tư bản cho nên ông không nghiên cứu những tiền đề của sản xuất hàng hoá cũng như những điều kiện tác động đến những quy luật đó. A.Smith cho rằng quy luật giá trị không hoạt động dưới chủ nghĩa tư bản là ông đã cảm thấy một cái gì đó là cho quy luật giá trị biến đổi. Trên thực tế, A.Smith đã cho thấy không thể dùng trực tiếp quy luật giá trị để giải thích việc trao đổi giữa tư bản và lao động. D.Ricardo đã có lý khi khẳng định quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản. Những chỗ mà A.Smith cảm thấy có vấn đề thì ông không biết tới, cho nên ông không thể giải quyết được mâu thuẫn trong lý luận giá trị của A.Smith và không phân biệt được sản xuất hàng hoá và sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Khi nghiên cứu sâu hơn về giá trị, ông đã bứoc sang giá cả sản xuất và đã bất lực khi nhìn thấy tiền công tăng lên làm giá trị tăng lên, rồi tốc độ chu chuyển của tư bản cũng ảnh hưởng đến giá trị…Điều này đã dẫn lý luận của giá trị của ông đến chỗ bế tắc, không triệt để và mâu thuẫn.
2.2. Lý luận về tiền công.
W.Petty xác định tiền công: “Pháp luật chỉ phải đảm bảo cho người công nhân số tối thiểu để sống thôi”, cái số đó phụ thuộc vào tính chất mầu mỡ tự nhiên của ruộng đất và quy môi những nhu cầu do khí hậu quy định. Trước đây phái trọng thương chỉ đơn giản kêu gọi pháp chế quy định mức tiền công rối đa, còn W.Petty nghiên cứu gía cả tự nhiên của lao động, nắm được mối liên hệ giữa tiền công và giá trị của các tư liệu sinh hoạt, hay đặt ra vấn đề quy luật kinh tế của tiền công. Cũng như tất cả các nhà kinh tế học cổ điển khi nghiên cứu về tiền công họ đều cho rằng, người công nhân bán lao động, họ chưa phân biệt được hai phạm trù lao động và sức lao động.
Khác với phái trọng thương và W.Petty, A.Smith tán thành thiền côngcao vì ông cho rằng một xã hội không thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành viên của nó nghèo nàn và khổ sở”. Xuất phát từ chỗ các loại thú vật đều sinh sôi nảy nở một cách tự nhiên tuỳ theo các tư liệu sinh hoạt sẵn có