Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng và triển khai chính sách đối ngoại được nêu rõ trong
Đại hội Đảng lần thứ X: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực ”
Chính sách đối ngoại tập trung vào thực hiện 3 mục tiêu lớn có mối quan hệ mật
thi ết với nhau là đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước, và
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Để đáp ứng được các chủ trương đó, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa và yêu cầu
đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chúng tôi cho rằng chiến lược đối ngoại phục vụ phát triển an
ninh-chính trị -văn hóa đất nước giai đoạn 2010- 2020 cần được xây dựng và thực hiện
với tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, khẳng định sự đúng đắn của đường
l ối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, là bạn, là
đối tác tin cậy của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, tạo nên tầm thế mới của đất
nước ta trên trường quốc tế.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2267 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hội nhập An ninh – Chính Trị - Văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Hội nhập An ninh – Chính Trị - Văn hóa
KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
Chủ đề: Kiến nghị Chính sách đối ngoại Việt Nam để đảm bảo định hướng đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020.
Vấn đề: Hội nhập An ninh – Chính trị - Văn hóa.
A. MỤC TIÊU CHUNG:
Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng và triển khai chính sách đối ngoại được nêu rõ trong
Đại hội Đảng lần thứ X: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực…”
Chính sách đối ngoại tập trung vào thực hiện 3 mục tiêu lớn có mối quan hệ mật
thiết với nhau là đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước, và
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Để đáp ứng được các chủ trương đó, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa và yêu cầu
đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chúng tôi cho rằng chiến lược đối ngoại phục vụ phát triển an
ninh-chính trị-văn hóa đất nước giai đoạn 2010- 2020 cần được xây dựng và thực hiện
với tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, khẳng định sự đúng đắn của đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, là bạn, là
đối tác tin cậy của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, tạo nên tầm thế mới của đất
nước ta trên trường quốc tế.
B. KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
I. Kiến nghị về hội nhập an ninh – chính trị:
1. Căn cứ hoạch định:
Thế giới và khu vực đang có những bước chuyển mình nhanh chóng, thế và lực của
các “cực” trong cục diện thế giới “đa cực” đang có những diễn biến phức tạp, tác động
mạnh mẽ tới các thiết chế đa phương. Bản thân các thiết chế đa phương cũng đang phải
tự thay đổi để thích ứng với tình hình mới. Biến chuyển nhanh chóng của môi trường
quốc tế và vì thế mới của Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có cách tiếp cận mới, các bước
đi mới trong các hoạt động ngoại giao đa phương.
Ngày nay, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế đã phát huy vai trò ngày càng
tích cực. Vai trò của các thiết chế đa phương sẽ ngày càng tăng trong đời sống quốc tế và
vai trò của các thiết chế đa phương quốc tế chủ đạo sẽ không thay đổi như: Liên Hiệp
Quốc, WTO, IMF…
Sau hơn 20 năm đổi mới với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế cũng như các diễn đàn,
khuôn khổ hợp tác đa phương như Liên Hiệp Quốc, ASEAN, APEC…, đã thu được
những kết quả to lớn, thiết thực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Trong
những năm gần đây, hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế
đã đạt được nhiều thành tựu , đưa vai trò và vị thế đất nước lên cao, hội nhập sâu rộng
hơn vào đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa của thể giới.
Việt Nam hiện nay mới chỉ chú trọng vào hội nhập kinh tế, chưa đi sâu vào hội
nhập an ninh – chính trị. Do vậy, Việt Nam cấn phải chủ động hơn nữa, tham gia tích cực
vào các thiết chế đa phương, hội nhập không những trên lĩnh vực kinh tế mà còn hội nhập
cả an ninh – chính trị.
Hội nhập an ninh là cơ hội để chúng ta nâng cao hơn nữa vị thế và hình ảnh một đất
nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình với những tham gia và đóng góp hiệu quả vào cuộc
đấu tranh chung của nhân loại vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, phồn vinh, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
2. Kiến nghị:
Việt Nam cần phải chủ động hội nhập an ninh – chính trị với thế giới. Với lộ trình
thích hợp, chủ động tham gia các thiết chế đa phương, các sáng kiến an ninh khu vực và
liên khu vực:
a) Đối với Liên Hiệp Quốc:
2.1. Việt Nam nên tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.
2.2. Việt Nam nên tiếp tục tích cực tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
b) Đối với ASEAN:
Việt Nam nên tập trung nguồn lực, nâng cao hiệu quả tham gia và phát huy vai trò
của Việt Nam tại ASEAN. Xác định ASEAN là trọng tâm chiến lược của ngoại giao đa
phương, là địa bàn chiến lược để ta triển khai đường lối đối ngoại chung.
3. Phương hướng triển khai
a) Đối với Liên Hiệp Quốc:
3.1. Việt Nam tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc:
- Tham gia một phần vào trách nhiệm quốc tế, Việt Nam có thể đóng góp ở mức
tượng trưng như: cử lực lượng y tế hay các lực lượng dân sự khác như báo chí, kĩ sư,…
- Cử một số đoàn đi học tập và trao đổi kinh nghiệm của một số nước đã tham gia
vào lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc như Indonexia, Malaysia, Vương quốc
Anh, Australia,…
Đóng góp nhân lực cho lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc giúp
nâng cao hơn nữa vị thế của VN trên trường quốc tế.
3.2. Việt Nam nên tiếp tục tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc bằng cách:
- Liên tục tự ứng cử mình vào vị trí chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc.
- Sẵn sàng tham gia các cơ chế cả trong và ngoài Hội đồng Bảo an vể việc tăng
cường hỗ trợ tái thiết và phát triển cho những nước vừa trải qua xung đột….
- Tham gia đầy đủ vào quá trình kiến tạo, xây dựng những quyết định quan trọng
của Hội đồng bảo an liên quan đến các vấn đề hòa bình và an ninh quan trọng hàng đầu
của khu vực và thế giới.
- Tích cực tham vấn, hợp tác chặt chẽ với các ủy viên khác trong Hội đồng bảo an
để có thể đưa ra các quyết sách kịp thời và phù hợp.
b) Đối với ASEAN:
- Kiên trì “Chủ trương nhất quán của Việt Nam là đã và sẽ tiếp tục tham gia hợp tác
ASEAN với phương châm ‘tích cực, chủ động và có trách nhiệm”,
- Tham gia tích cực hơn trong ASEAN và các cơ chế do ASEAN là chủ đạo để gia
tăng các lợi ích toàn diện, trực tiếp tới an ninh và phát triển của Việt Nam, đồng thời tạo
thế cho ta phát huy hiệu quả tham gia tại Liên Hiệp Quốc, APEC, ASEM và các thiết chế
khác
- Thông qua Diễn đàn khu vực Asean (ARF)- diễn đàn chủ đạo về chính trị và an
ninh, tìm ra giải pháp cho các vấn đề an ninh-chính trị của Việt Nam như vấn đề Biển
Đông.v.v..
- Việt Nam tích cực cùng các nước bàn bạc và tìm kiếm các hình thái, bước đi phù
hợp xây dựng cộng đồng chính trị - an ninh, trụ cột khó xây dựng nhất trong 3 trụ cột của
Cộng đồng ASEAN
- Về các biện pháp chung để xây dựng Cộng đồng ASEAN:
i) Đẩy nhanh tiến trình thực hiện các chương trình và các kế hoạch hành động về
xây dựng Cộng đồng ASEAN với các biện pháp cụ thể và nguồn lực thích đáng.
ii) Cần có những biện pháp thiết thực để thu hẹp khoảng cách phát triển hiện đang
tồn tại trong Hiệp hội, nhất là giữa hai nhóm nước thành viên cũ và mới thông qua thực
hiện hiệu quả sáng kiến liên kết ASEAN ”
iii) Từng nước thành viên cần lồng ghép phù hợp các chương trình phát triển quốc
gia với các chương trình liên kết khu vực
- Trong xây dựng hiến chương, với vai trò thành viên tham gia soạn thảo và có
nhiều đóng góp, Việt Nam cần nâng cao tiếng nói của mình trong các vấn đề đổi mới cơ
chế ASEAN, các nguyên tắc hoạt động của tổ chức, vấn đề giải quyết xung đột và đóng
góp tài chính.
- Cùng với các nước khác, Việt Nam chủ động đưa ra nhiều sáng kiến mới, nhằm
khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ, thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển.
- Vào thời điểm hiện tại, các thể chế đa phương ASEAN đang có phần thiên vị cho
Trung Quốc như ASEAN + 1. Việt Nam phải tìm cách để khiến các thể chế đa phương
này hoạt động tốt hơn, như Hội nghị Thượng đỉnh hoặc APEC, hoặc ủng hộ các sáng kiến
xây dựng cấu trúc để cân bằng với sức mạnh chính trị và kinh tế của Trung Quốc.
II. Kiến nghị về vấn đề An ninh con người:
1. Căn cứ hoạch định
- Thách thức đối với Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới:
Ngày nay các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống đang ngày một gia
tăng. Đặc biệt, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng đa chiều, phức tạp và
đan xen lẫn nhau hiện đang đòi hỏi phải có biện pháp xử lý, lấy con người làm trung tâm,
có tính chất phòng ngừa và xuất phát từ bối cảnh cụ thể.
Nếu như theo cách hiểu truyền thống, an ninh đồng nghĩa với an ninh quốc gia, trong
đó quốc gia là chủ thể cần được bảo vệ về mặt an ninh, thì ngày nay con người nổi lên trở
thành chủ thể chính của an ninh và cần được ưu tiên bảo vệ. Vì vậy, nâng cao an ninh con
người chính là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia và ngược lại.
- Xu hướng của Việt Nam và thế giới: “ Coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của phát triển.”
o Trên thế giới: Diễn ra nhiều hội thảo về an ninh con người. Tháng
5/2010, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã họp phiên toàn thể để thảo luận về báo cáo đầu
tiên của Tổng Thư Ký LHQ về vấn đề an ninh con người. Cùng thời gian này, Đại hội
đồng Liên hiệp quốc cũng tổ chức thảo luận bàn tròn về vấn đề này
o Trong khu vực: An ninh con người là một trong những nền tảng cho sự
hợp tác và tiến bộ của ASEAN. Năm 2008, tất cả các nước thành viên ASEAN đã phê
chuẩn Hiến chương ASEAN, trong đó đề cập tới vấn đề an ninh con người.
o Các quốc gia khác: Khái niệm "an ninh con người" đã được nhiều quốc
gia tiếp nhận và áp dụng vào các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của mình. Ví dụ
như Nhật Bản đã đưa an ninh con người trở thành một trọng tâm trong chính sách đối
ngoại của mình
2. Kiến Nghị:
Trong khi thế giới đã đưa khái niệm an ninh con người vào chính sách quốc gia của
mình, thì phải chăng đã đến lúc Việt Nam cũng nên áp dụng cách tiếp cận mới này đối
với vấn đề an ninh để hội nhập, phát triển cùng thời đại.
Các chính sách hay văn bản pháp luật chính thức của Việt Nam mặc dù hướng tới
việc bảo vệ người dân trước các mối đe dọa về an ninh con người, nhưng các chính chính
sách này vẫn chưa chính thức được đề cập tới như là những chính sách "an ninh con
người" do việc áp dụng khái niệm "an ninh con người" vào khuôn khổ hoạch định chính
sách quốc gia vẫn chưa diễn ra ở nước ta.
Do đó, chúng tôi kiến nghi đưa an ninh con người vào khuôn khổ hoạch định chính
sách quốc gia.
3. Phương hướng triển khai:
- Đảng có thể xem xét đưa việc đảm bảo an ninh con người cho người dân vào các
văn kiện, Đồng thời, Chính phủ có thể triển khai xây dựng chiến lược quốc gia về bảo vệ
và nâng cao an ninh con người ở Việt Nam.
- Tăng cường năng lực của chính phủ và chính quyền địa phương nhằm ứng phó
với những thách thức đang nổi lên, nâng cao nhận thức người dân đối với vấn đề an ninh
con người, qua đó đó có những biện pháp và chính sách phù hợp để nâng cao toàn diện
an ninh con người. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm bảo vệ và nâng cao an ninh con
người ở Việt Nam, trong đó trước mắt có thể xem xét xây dựng Luật các Tình trạng Khẩn
cấp nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc ứng phó với các vấn đề mang tính cấp bách, đe
dọa an ninh con người trên quy mô lớn, trong đó có vấn đề thiên tai và dịch bệnh.
- Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các diễn đàn đa phương, song
phương, hội thảo quốc tế về an ninh con người. để cùng nhau hỗ trợ, tìm ra giải pháp kịp
thời phòng chống, ứng phó và giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu. Cụ thể vấn
đề an ninh y tế nằm trong khuôn khổ an ninh con người, Việt Nam nên chủ động tham
gia hơn nữa các diễn đàn, hội nghị đa phương trong khu vực và thế giới như Hội nghị khu
vực châu Á về đại dịch cúm ở người, Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN +3, v.v.. Qua đó,
tăng tính đa dạng hóa, đa phương hóa, trong quan hệ Việt Nam với các nước, đồng thời
củng cố, thắt chặt hợp tác các mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới thông qua việc
góp thêm sức mạnh với cộng đồng quốc tế, chung tay giải quyết vấn đề an ninh con
người cũng như trong việc xây dựng các cơ chế hỗ trợ và các tiêu chuẩn chung để giải
quyết các vấn đề mang tính toàn cầu. Từ ổn định an ninh quốc gia đến góp phần đảm bảo
an ninh quốc tế.
- Áp dụng khái niệm an ninh con người trong ngoại giao đa phương, nhất là trong
các hoạt động của Liên hợp quốc. Từ đó, kêu gọi Liên hợp quốc tiếp tục hợp tác và hỗ trợ
Việt Nam xử lý những thách thức mà Việt Nam đang phải đối phó, trong đó có vấn đề
biến đổi khí hậu, HIV/AIDS và buôn bán người.
- Đăng cai tổ chức các Diễn đàn về an ninh con người. Kêu gọi sự tham gia của các
quốc gia. Đặc biệt là các nước Asean. Qua đó, gửi tới cộng đồng thế giới một thông điệp
tích cực về Việt Nam, không những góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên
trường quốc tế mà còn giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc kêu gọi tài trợ ODA, đặc
biệt là đối với các dự án liên quan đến an ninh con người.
III. Kiến nghị về hội nhập Văn hóa:
1. Căn cứ hoạch định:
Bối cảnh thế giới và trong nước:
Thế giới:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập diễn ra sâu rộng cùng sự phụ thuộc lẫn nhau
và khoảng cách chính trị, kinh tế ngày càng bị thu hẹp, người ta nhận ra rằng bên cạnh
Ngoại giao chính trị và Ngoại giao kinh tế vẫn còn tồn tại 1 hình thức Ngoại giao khác,
đang ngày 1 trở nên quan trọng hơn và hiệu quả hơn trong việc đạt được những mục đích
cuối cùng của các hoạt động đối ngoại. Đó chính là Ngoại gia văn hóa, 1 trong các lĩnh
vực của “sức mạnh mềm” hiện đang được các quốc gia sử dụng 1 cách sâu rộng và triệt
để. Ngay cả những cường quốc tưởng như vốn đã thành thục trong các Ngoại giao văn
hóa cùng gần đây mới chính thức đề cập đến Ngoại giao văn hóa như 1 phương thức
Ngoại giao mới, ví dụ: Liên minh Châu Âu EU đã cùng nhau thực hiện chương trình “thủ
đô văn hóa” để quảng bá nền văn hóa của quốc gia mình trong khu vực cũng như trên thế
giới.
Việt Nam:
Thế và lực đất nước ta bắt đầu thay đổi theo chiều hướng tích cực. Quan hệ của Việt
Nam với bên ngoài ngày càng được gia tăng theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, trong đó
văn hóa trở thành 1 lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Đảng và Nhà nước đã nhận thấy rằng
“Ngoại giao văn hóa” cũng quan trọng và ngang tầm với “Ngoại giao chính trị”, “Ngoại
giao kinh tế”. Đấy là 1 trong 3 chân kiềng vững chắc nhằm giúp Việt Nam hội nhập toàn
diện với thế giới.
Ngoại giao văn hóa:
A_ Nội dung cụ thể của “Ngoại giao văn hóa”
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5, khóa VIII (1998) được coi là văn kiện có ý
nghĩa tổng quát nhất và quan trọng nhất đối với văn hóa Việt Nam, đặc biệt đã chính thức
đề cập đến văn hóa đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa. Văn kiện nêu nhiệm vụ trọng
tâm là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, X nêu rõ sự cần thiết làm cho nền
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, khẳng định sự cần thiết mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế của nước nhà, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa. (13, tr.213)
Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25 (năm 2006) đã thống nhất và đi vào triển khai đồng
bộ chính sách ngoại giao Việt Nam dựa trên 3 trụ cột chính là Ngoại giao chính trị, Ngoại
giao kinh tế và Ngoại giao văn hóa. Trong đó Ngoại giao văn hóa đóng vai trò là nền tảng
tinh thần, biện pháp, nội dung và mục tiêu của chính sách đối ngoại Việt Nam, hỗ trợ cho
Ngoại giao chính trị và Ngoại giao kinh tế để tạo thành 1 tổng thể chính sách, phát huy
tốt nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại. (3, tr.17)
Năm 2008, ông Phạm Sanh Châu (Vụ trưởng Vụ Văn hóa- Đối ngoại UNESCO,
Tổng thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam) đã nêu rõ nhiệm vụ chính của
Ngoại giao văn hóa Việt Nam: giới thiệu hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt
Nam ra thế giới để tăng cường sự hiểu biết về Việt Nam. Thông qua việc quảng bá rộng
rãi các giá trị văn hóa đặc sắc của Việt Nam, Ngoại giao văn hóa sẽ chính là cầu nối
chuyển tới bạn bè quốc tế thông điệp về 1 đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định, thân
thiện, hiếu khách, phát triển nhanh và đang ngày càng khẳng định vai trò của mình trên
trường quốc tế (3, tr.19)
2. Kiến nghị:
Từ nội dung cụ thể trên, cùng với sự phát triển không ngừng và ngày càng có chỗ
đứng của ASEAN không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà còn trên toàn thế giới. Việt
Nam chúng ta với vai trò là 1 thành viên tích cực, tôi xin kiến nghị việc các quốc gia
trong cộng đồng ASEAN thúc đẩy “ngoại giao văn hóa” bằng cách cùng nhau tổ chức
chương trình “thành phố văn hóa”.
Chương trình này giúp các nước trong khu vực hiểu thêm về nền văn hóa của nhau,
có mối quan hệ gắn bó và bền chặt hơn. Điều này tăng cường sự gần gũi giữa nhân dân
các nước trong khu vực, qua đó nâng cao giá trị và sự đa dạng văn hóa tại các khu vực
này cũng như khẳng định vị thế của Việt Nam trong khu vực.
3. Phương hướng triển khai:
Tiền thân của danh hiệu “Thủ đô Văn hoá” là chương trình “Thành phố Văn hoá”
do Liên minh Châu Âu (EU) khởi xướng từ năm 1985. Những thành phố giành được danh
hiệu “Thủ đô Văn hoá Châu Âu” sẽ được EU cấp một khoản ngân sách để hỗ trợ hoạt
động lễ hội và văn hóa trong suốt cả năm… Mục tiêu chính nhằm tạo một “bộ mặt” văn
hóa châu Âu mới, tôn vinh văn hóa truyền thống vốn giữ vai trò quan trọng trong cuộc
sống và cả những nét văn hóa hiện đại mang đậm dấu ấn riêng của thành phố đó. Đây sẽ
là một dịp tốt để thành phố đẩy mạnh hoạt động du lịch.
Hàng năm, các quốc gia trong ASEAN sẽ cùng nhau lựa chọn ra 1 thành phố của 1
quốc gia trong ASEAN trở thành “thủ đô văn hóa”. Danh hiệu này sẽ giúp thành phố
được chọn “phô bày” đời sống và sự phát triển văn hóa của mình, qua đó thúc đẩy sự
đoàn kết, hữu nghị, hiểu biết và hợp tác các nước trong khu vực.
dựa trên các điều kiện:
- Ổn định về chính trị, không xảy ra nội chiến hay xung đột
- Không xảy ra biến động về kinh tế
Các quốc gia nhận thấy thành phố của mình đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên sẽ nộp
đơn xin ứng cử “thủ đô văn hóa”, ASEAN sẽ bầu ra 1 hội đồng gồm thành viên của các
nước đảm trách công việc kiểm tra và lựa chọn. Việc kiểm tra và lựa chọn này diễn ra
trong vòng 9 tháng và công bố thành phố sẽ được chọn vào thời điểm cuối năm.
Bình chọn ra Thủ đô văn hóa cho ASEAN cũng là một hoạt động nhằm giữ gìn và đề
cao các giá trị văn hóa truyền thống của ASEAN và cũng là để giới thiệu cho người dân
ASEAN về các nền văn hóa lớn trên thế giới.
Bằng cách hàng năm trao danh hiệu Thủ đô Văn hóa cho một hoặc nhiều thành phố ở
khu vực, ASEAN có thể chứng tỏ với thế giới về sự đa dạng văn hóa của khu vực mình.
Các hoạt động văn hóa, du lịch tại các thủ đô văn hóa sẽ được tổ chức và diễn ra liên
tục tại hàng trăm địa điểm trong và ngoài thành phố. Các nhà tổ chức nên khéo tận dụng
được mọi nguồn tài chính từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, từ chính phủ, các tập
đoàn kinh tế lớn nhỏ và cả các nước đối tác.
Mục tiêu chính nhằm tạo một “bộ mặt” văn hóa ASEAN mới, tôn vinh văn hóa truyền
thống vốn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống và cả những nét văn hóa hiện đại mang
đậm dấu ấn riêng của thành phố đó.
Cách tổ chức sự kiện này có lợi cho tất cả các bên tham gia. Người dân tại nơi được
chọn làm thủ đô văn hóa và du khách tới đây tha hồ lựa chọn và thưởng thức các hoạt
động văn hóa trong suốt cả năm liền. Chính quyền nơi được chọn làm thủ đô văn hóa
không phải bỏ ra nhiều kinh phí mà có thể tổ chức được những sự kiện văn hóa mang tầm
quốc tế, nhất là có kinh phí để trùng tu các công trình lịch sử.
Việc tu bổ các trung tâm văn hóa hay xây dựng những phương tiện văn hóa cũng là
các mục đích đầy hoài bão của dự án này. Ví dụ như thành phố Lille (Pháp) – nơi được
bầu chọn là thủ đô văn hóa của EU năm 2004 – đã có 12 nhà máy cũ đã được tu sửa
thành trung tâm văn hóa. Một bảo tàng nghệ thuật hiện đại đã được xây dựng ở thủ đô
của Luxembourg khi thành phố này nhận danh hiệu Thủ đô Văn hóa vào năm 1995. Một
cuộc nghiên cứu của Ủy ban châu Âu cho thấy, nhìn chung các Thủ đô Văn hóa đều được
hưởng lợi từ danh hiệu này.
Mỗi năm, bất cứ thành phố nào được bầu chọn là thủ đô văn hóa cũng sẽ tập trung
đưa các mục tiêu về văn hoá,